tag:blogger.com,1999:blog-2252693857871129152024-02-08T22:52:30.016+09:00Hòa hồnNơi Như Thị Duyên ghi chép...ahttp://www.blogger.com/profile/17720048983692356076noreply@blogger.comBlogger89125tag:blogger.com,1999:blog-225269385787112915.post-41869136591290675902012-04-17T02:22:00.001+09:002012-04-17T02:23:05.937+09:00Duyên<span style="font-family: arial;">Mình còn dự định làm nhiều thứ, định viết nhiều thứ, dịch nhiều thứ...</span><br style="font-family: arial;"> <span style="font-family: arial;">Nhưng trời không cho phép nữa rồi,...</span><br style="font-family: arial;"> <span style="font-family: arial;"></span><br style="font-family: arial;"> <span style="font-family: arial;">Mọi sự trên đời đều do nhân duyên tạo thành. Hết duyên thì thôi đành vậy.</span><br style="font-family: arial;"> <br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;">Nếu trời còn thương, còn gặp lại mọi người.</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;">Trời không thương, cảm ơn mọi người đã ủng hộ, quan tâm theo dõi bấy lâu nay.</span><br style="font-family: arial;">ahttp://www.blogger.com/profile/17720048983692356076noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-225269385787112915.post-38744487797988238802012-04-12T02:18:00.002+09:002012-04-12T02:22:29.031+09:00Ai Biết Xin Chỉ Giúp<span style="font-family:arial;">Xem clip này trên Youtube từ 4 năm trước.</span><br style="font-family:arial;"><span style="font-family:arial;">Bất ngờ về sự tồn tại của nó.</span><br style="font-family:arial;"><span style="font-family:arial;">Từ đó luôn tìm kiếm thông tin, nhưng vô vọng...</span><br style="font-family:arial;"><span style="font-family:arial;">Nay lôi file đã tải trong máy từ 4 năm trước, làm sub và đi bêu rếu khắp nơi, hy vọng sẽ được cao nhân giúp đỡ...</span><br style="font-family: arial;"><br style="font-family: arial;"><br style="font-family: arial;"><br /><br /><br /><iframe src="http://www.youtube.com/embed/WggCFHdLyMs" allowfullscreen="" frameborder="0" height="315" width="420"></iframe>ahttp://www.blogger.com/profile/17720048983692356076noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-225269385787112915.post-12801642907627868932012-03-16T04:26:00.001+09:002012-03-16T04:26:48.716+09:00Kyōhachi-ryū<span style="font-family: arial;font-size:180%;" ><span style="color:#008000;"><b><div align="center">Kyōhachi-ryū</div></b></span></span><br style="font-family: arial;"> <br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> Kyōhachi-ryū (京八流) là một phái kiếm trong truyền thuyết Nhật Bản và được xem như là thủy tổ của hết thảy tất cả các lưu phái kiếm thuật được truyền đến ngày nay. </span><br style="font-family: arial;"> <br style="font-family: arial;"> <div style="font-family: arial;" align="center"><b><span style="font-size:130%;"><span style="color:#FF0000;">Thành lập</span></span></b></div><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> Truyền thuyết cho rằng phái này do Kiichi Hōgan, một </span><b style="font-family: arial;">Âm Dương sư</b><span style="font-family: arial;"> văn võ song toàn sống vào cuối thời Heian lập nên khi truyền dạy đao pháp cho 8 tăng lữ ở núi Kurama thuộc Kyōto. Cũng có truyền thuyết cho rằng Minamoto no Yoshitsune và nhiều nhân vật nổi tiếng khác trong lịch sử cũng theo học phái kiếm này, nhưng thảy đều không có chứng cứ rõ ràng và đều không thoát ra khỏi khuôn khổ truyền thuyết.</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> Lại có truyền thuyết cho rằng Kyōhachi-ryū được Yoshioka Kempō Naomoto lập nên. Sau đó, đến cuối thời Chiến quốc, đầu thời Edo thì có Yoshioka Seijūrō, Yoshioka Denshichirō đều là những cao thủ của phái kiếm Kyōhachi-ryū, võ đường Yoshioka và từng tỷ thí với kiếm khách </span><b style="font-family: arial;">Miyamoto Musashi</b><span style="font-family: arial;">. Tuy nhiên, phái kiếm Yoshioka-ryū đã tuyệt duyệt và bản thân trận đấu của họ Yoshioka với Miyamoto Musashi cũng không mấy đáng tin xuất hiện trong các thư tịch cổ.</span><br style="font-family: arial;"> <br style="font-family: arial;"> <b style="font-family: arial;"><span style="font-size:130%;"><span style="color:#FF0000;"><div align="center">Kết luận</div></span></span></b><br style="font-family: arial;"> <br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> Ngoài Yoshioka-ryū, phái Kurama-ryū, </span><b style="font-family: arial;">Chūjō-ryū</b><span style="font-family: arial;"> cũng được cho là bắt nguồn từ Kyōhachi-ryū. Tuy nhiên, tất cả đều không lưu lại chứng cứ rõ ràng nên phái này đang bị xem hoài nghi có tồn tại thực sự hay không. Tuy vậy, Kyōhachi-ryū vẫn là một nguồn cảm hứng, là đề tài mạnh mẽ cho nhiều tác phẩm văn học, giải trí như Manga cho đến ngày nay. </span>ahttp://www.blogger.com/profile/17720048983692356076noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-225269385787112915.post-82815797433669762802012-03-13T14:15:00.002+09:002012-03-16T22:46:54.545+09:00Gorin-no-sho 1<div style="font-family: arial;" align="center"><b><span style="font-size:180%;"><span style="color:#008000;">KHÁI YẾU</span></span></b></div><br style="font-family: arial;"> <b style="font-family: arial;">Gorin-no-sho</b><span style="font-family: arial;"> (五輪, Hán Việt: Ngũ Luân Thư) là tên một tập binh pháp thư do kiếm khách Nhật Bản là </span><b style="font-family: arial;"><span style="color:#FF0000;">Miyamoto Musashi</span></b><span style="font-family: arial;"> biên soạn. Đây cũng là tác phẩm tiêu biểu của ông.</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> Người ta cho rằng tác phẩm này được Musashi chấp bút trong hang động Reigandō trên đỉnh núi Kimpōzan thuộc xứ </span><b style="font-family: arial;">Kumamoto</b><span style="font-family: arial;"> trước khi ông mất, trong khoảng thời gian từ năm Kan-ei thứ 20 (1643) cho đến năm Shōhō thứ 2 (1645).</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> Nội dung của Gorin-no-sho chủ yếu bàn về binh pháp, võ nghệ, kiếm pháp nhưng ngày nay, nó được đánh giá cao ở nhiều phương diện như chiến lược, kinh doanh, giáo dục,... Gorin-no-sho thể hiện quan điểm của Musashi về cách để đi đến chiến thắng trong các trận đấu. Yếu tố này được các doanh nhân hiện đại coi trọng, họ xem đó là một phần kim chỉ nam giúp họ đạt được thành công trong sự nghiệp.</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> Bản gốc của Gorin-no-sho do Musashi viết đã bị đốt cháy, hiện chỉ còn một số bản sao. Vì bản chính không còn tồn tại mà giữa các bản sao có lại có nhiều điểm dị biệt, và cũng vì tập sách có nhiều ghi chép dựa trên các giá trị quan sau thời của Musashi nên có thuyết cho rằng Gorin-no-sho không phải trước của Miyamoto Musashi mà là tác phẩm của các đệ tử hậu thế rồi gán ghép cho ông.</span><br style="font-family: arial;"> <br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> Ngày nay, sách được dịch và chú giải bằng tiếng Nhật hiện đại và cũng được dịch sang nhiều ngôn ngữ khác.</span><br style="font-family: arial;"> <br style="font-family: arial;"> <img style="font-family: arial;" src="http://i.imgur.com/eITil.jpg" alt="" border="0" /><br style="font-family: arial;"> <i style="font-family: arial;"><span style="color:#0000FF;">Một bản sao Gorin-no-sho</span></i><br style="font-family: arial;"> <br style="font-family: arial;"> <div style="font-family: arial;" align="center"><b><span style="color:#FF0000;"><span style="font-size:130%;">Cấu thành</span></span></b></div><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> Tên sách, Gorin-no-sho hay "Ngũ Luân Thư", bắt nguồn từ quan niệm ngũ đại trong Phật giáo Mật tông. Sách gồm 5 quyển lần lượt là "địa", "thủy", "hỏa", "phong" và "không".</span><br style="font-family: arial;"> <br style="font-family: arial;"> <b style="font-family: arial;">Địa thư (Chi-no-maki)</b><span style="font-family: arial;">: </span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> Musashi tự xưng phái kiếm của mình là Niten Ichi-ryū, giới thiệu về cuộc đời và công phu binh pháp của mình. Đương thời, từ "</span><b style="font-family: arial;"><span style="color:#FF0000;">binh pháp</span></b><span style="font-family: arial;">" (heihō, hyōhō) được dùng theo cả hai nghĩa là thuật dụng binh và nghĩa võ nghệ, kiếm pháp. Quyển này được đặt tên là "địa thư" dựa trên quan điểm "con đường thẳng thì viết trên mặt đất".</span><br style="font-family: arial;"> <br style="font-family: arial;"> <b style="font-family: arial;">Thủy thư (Sui-no-maki)</b><span style="font-family: arial;">:</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> Phần này bàn về tâm lý chuẩn bị đối với phái kiếm Niten Ichi-ryū, cách cầm kiếm và nhiều khía cạnh liên quan đến kiếm thuật khác. Quyển này được đặt tên là "thủy thư" dựa trên quan điểm "Niten Ichi-ryū như dòng nước dẫn đường", trong đó thân pháp (Taisabaki), kiếm chiêu (Kensabaki) linh hoạt uyển chuyển như nước chảy.</span><br style="font-family: arial;"> <br style="font-family: arial;"> <b style="font-family: arial;">Hỏa thư (Hi-no-maki)</b><span style="font-family: arial;">:</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> Phần này viết về thực chiến, cá nhân đấu cá nhân, số đông chọi số đông cũng như tâm lý khi lâm chiến. Phần này được đặt tên là "hỏa thư" dựa trên quan điểm "trận đấu như thế lửa cháy dữ".</span><br style="font-family: arial;"> <br style="font-family: arial;"> <b style="font-family: arial;">Phong thư (Fū-no-maki)</b><span style="font-family: arial;">:</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> Viết về các môn phái khác. Vì phần này bàn đến chỗ hay dở của từng phái kiếm, từng nhà từng họ nên tác giả chơi chữ đặt tên là "phong thư" vì "phong" còn có nghĩa là phong cách, dạng thứ như "gia phong", "cổ phong"...</span><br style="font-family: arial;"> <br style="font-family: arial;"> <b style="font-family: arial;">Không thư (Kū-no-maki)</b><span style="font-family: arial;">:</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> Phần này viết bản chất của binh pháp là "không", to lớn quãng đại khôn lường.</span><br style="font-family: arial;"> <br style="font-family: arial;"> <br style="font-family: arial;"> <img style="font-family: arial;" src="http://i.imgur.com/tBR2I.jpg" alt="" border="0" /><br style="font-family: arial;"> <i style="font-family: arial;">Reigan-dō (Linh Nghiêm động), nơi Musashi ẩn dật vào cuối đời và cũng là nơi ông hoàn tất Gorin-no-sho</i><br style="font-family: arial;"> <br style="font-family: arial;"> <br style="font-family: arial;"> <b style="font-family: arial;"><span style="font-size:130%;"><span style="color:#FF0000;"><div align="center">Phê phán các môn phái khác trong Phong thư</div></span></span></b><br style="font-family: arial;"> <br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + Phê phán các môn phái ưa dùng trường kiếm vì không thích hợp khi cận chiến và trở thành bất lợi khi chiến đấu ở nơi chật hẹp. Kiếm sĩ phải từ bỏ tâm lý dựa dẫm vào vũ khí dài.</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + Phê phán các môn phái ưa dùng đoản kiếm, vì đoản kiếm chỉ thích hợp với "hậu thủ" chứ không thể chiếm được "tiên thủ" và đoản kiếm cũng bất lợi khi phải chọi với số đông.</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + Phê phán các môn phái ưa vung kiếm thật mạnh, vì khi ra đòn mạnh thì ta cũng sẽ mất thăng bằng và tăng nguy cơ làm gãy kiếm.</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + Phê phán các môn phái có bộ pháp kỳ lạ, vì nhiều chuyển động quái dị khiến chậm mất nhịp, bị địch chiếm mất tiên thủ và cũng bị giới hạn ở nhiều địa hình khác nhau.</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + Phê phán các môn phái chấp trước vào thế thủ. Thế thủ là yếu tố căn bản nhưng mang tính phòng vệ, là hậu thủ. Trong thực chiến, để làm địch hỗn loạn, phân tâm thì thế thủ phải mềm dẻo linh hoạt.</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + Phê phán các môn phái sở hữu tuyệt kỹ bí truyền, vì khi chém nhau trong thực chiến thì không phân biệt tuyệt kỹ hay kỹ thuật sơ bộ, phàm đòn nào đả thương đối thủ đều có giá trị như nhau cả. Khi đào tạo thì cần dựa vào năng lực thực tế của từng cá nhân mà chỉ đạo.</span><br style="font-family: arial;"> <br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> Từ những điểm phê phán các môn phái khác, tác giả làm rõ tính hữu dụng của Niten Ichi-ryū.</span><br style="font-family: arial;"> <br style="font-family: arial;"> <b style="font-family: arial;"><span style="font-size:130%;"><span style="color:#FF0000;"><div align="center">Thư tịch liên quan</div></span></span></b><br style="font-family: arial;"> <br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + Watanabe Ichirō, "Gorin-no-sho", NXB Iwanami shoten</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + Sokomoto Hosokawa kehon</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + Mihashi Kan-ichirō, "Kendō Hiyō", NXB thể dục thể thao, 2002</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + "Gorin-no-sho", phụ lục "Kendō Hiyō"</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + Matsunobu Ichiji, "Ketteiban Miyamoto Musashi zensho"</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + Gorin-no-sho bản chính thức, dịch sang tiếng Nhật hiện đại do Ōkura Ryūji dịch</span>ahttp://www.blogger.com/profile/17720048983692356076noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-225269385787112915.post-5210388467291989332012-03-04T03:30:00.001+09:002012-03-04T03:33:39.908+09:00Sasaki Kojirō<div style="font-family: arial;" align="center"><b><span style="font-size:6;"><span style="color:#008000;">Sasaki Kojirō</span></span></b></div><br style="font-family: arial;"> <b style="font-family: arial;">Sasaki Kojirō</b><span style="font-family: arial;"> (佐々木 小次郎) là một kiếm khách Nhật Bản sống vào thời Azuchi Momoyama cho đến đầu thời Edo. Kiếm khách này không rõ năm sinh, mất vào ngày 13 tháng 4 năm Keichō thứ 17 (13-5-1612). Kojirō hiệu là Ganryū, chữ Hán viết là 巌流 (Nham Lưu), 岸流 (Ngạn Lưu), 岸柳 (Ngạn Liễu), 岩龍 (Nham Long)..... Những chữ này tuy viết khách nhau nhưng đều phát âm là Ganryū trong tiếng Nhật. </span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> Sasaki Kojirō trở nên nổi tiếng vì trận quyết đấu với kiếm hào Miyamoto Musashi trên đảo Ganryū (Ganryū-jima).</span><br style="font-family: arial;"> <br style="font-family: arial;"> <img style="font-family: arial;" src="http://lh5.ggpht.com/-1hOeJp0-VXw/SB5KYFuiQ8I/AAAAAAAAAwI/zDV-_YWoVoA/P1020169.JPG" alt="" border="0" /><br style="font-family: arial;"> <i style="font-family: arial;"><span style="color:Blue;">Tượng đá Sasaki Kojirō và Miyamoto Musashi trên đảo Ganryū.</span></i><br style="font-family: arial;"> <br style="font-family: arial;"> <b style="font-family: arial;"><span style="font-size:130%;"><span style="color:Red;">Cuộc đời</span></span></b><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> Về xuất thân của Sasaki Kojirō thì còn nhiều điểm không rõ ràng. Có thuyết cho rằng Kojirō ra đời trong một gia đình hào tộc có thế lực ở làng Fukuda, quận Tagawa thuộc xứ Buzen (nay là tỉnh Fukuoka). Trong cuốn "Nhị Thiên ký" (Nitenki) do Toyoda Kagehide ở phiên trấn Kumamoto biên tập vào năm An-ei thứ 5 (1776) thì ghi rằng Kojirō xuất thân từ làng Jōkyōji thuộc xứ Echizen (nay là tỉnh Fukui) và hội đắc được bí kiếm "Tsubame-gaeshi" tại thác nước Ichijō-taki thuộc địa phận Fukui. Trong tiểu thuyết "Miyamoto Musashi", tác giả Yoshikawa Eiji viết rằng Kojirō xuất thân từ xứ Suō. Năm sinh của Kojirō được cho là vào niên hiệu Tenshō hoặc Eiroku. Kojirō họ Sasaki, nhưng trong sách "Tanji Hōkin Hikki" thì ghi là họ Tsuta.</span><br style="font-family: arial;"> <br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> Sasaki Kojirō được cho là theo học kiếm pháp với Toda Seigen, cao thủ phái Chūjō-ryū, lại có thuyết khác cho rằng Kojirō là đệ tử của Kanemaki Jisai, học trò của Toda Seigen. Đầu tiên Kojirō theo thờ họ Mōri ở xứ Aki, lang thang khắp các xứ để trau dồi võ công, sáng tạo ra thế kiếm "Tsubame-gaeshi" và gây dựng nên phái kiếm Gan-ryū. Sau Kojirō giữ chức Shihan dạy kiếm thuật cho chúa phiên Kokura. Năm Keichō thứ 17 (1612), Kojirō sử thanh trường kiếm Bizen Osafune Nagamitsu dài 3 thước 3 thốn (chừng 1 mét) quyết đấu với kiếm khách giang hồ Miyamoto Musashi trên đảo Ganryū và chết trong trận đấu đó. Vì thua trận nên hậu thế gọi thanh kiếm của Kojirō bằng tục danh "Monohoshi-zao", nghĩa là cây sào phơi đồ, với ý châm chọc là kiếm chỉ dài thôi chứ chẳng chém được ai.</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> Rất nhiều sử liệu ghi chép rằng Kojirō thua chết trong trận quyết đấu trên đảo Ganryū với Miyamoto Musashi, nhưng theo Numata Nobumoto, quan Gia Lão của lãnh chúa Hosokawa phiên Kokura viết lại trong cuốn sách của ông là "Numata kaki" (ký ghi chép của họ Numata) thì Musashi đã không giết chết Kojirō trong trận đấu đó. Kojirō đấu thua, chặp sau tỉnh lại thì bị đám đệ tử của Musashi giết chết. Numata cũng viết rằng chúng đệ tử của Kojirō hận Musashi vì đấu thua, toan tập kích Musashi nhưng nhờ Numata giúp đỡ mà Musashi thoát được. Sách viết nguyên nhân dẫn đến trận quyết đấu trên đảo là do đám đệ tử quá khích của hai người tranh cãi hơn thua về sư phụ chúng.</span><br style="font-family: arial;"> <br style="font-family: arial;"> <br style="font-family: arial;"> <b style="font-family: arial;"><span style="color:Red;"><span style="font-size:130%;">Năm mất</span></span></b><br style="font-family: arial;"> <br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> Trong "Nitenki" (Nhị Thiên ký), cuốn truyện ký kể về Miyamoto Musashi do quan Gia lão của chúa Hosokawa là Toyoda Kagehide viết có đoạn chép rằng khi quyết đấu với Musashi trên đảo Ganryū thì Kojirō đã 18 tuổi. Nhưng trong cuốn "Bukōden" (Võ công truyện) vốn là nguyên bản của "Nitenki" thì không có đoạn chép trên nhưng có đoạn viết rằng Sasaki Kojirō sáng lập môn phái năm 18 tuổi. Nếu căn cứ vào việc Kojirō gặp gỡ Toda Seigen thì ít nhất cũng đã trên 50 tuổi, nếu là đệ tử chân truyền của Seigen thì Kojirō phải là một lão nhân. Do đó có nhiều thuyết cho rằng sách ghi sai số tuổi của Kojirō lúc quyết đấu trên đảo từ "thất bát" (78) thành "thập bát" (18) bởi Hán tự "thất" và "thập" có tự dạng gần giống nhau. Lại xem nếu Kojirō là đệ tử của Kanemaki Jisai thì rất nhiều khả năng Kojirō nhiều tuổi hơn Musashi.</span><br style="font-family: arial;"> <br style="font-family: arial;"> <img style="font-family: arial;" src="http://blogimg.goo.ne.jp/user_image/17/87/c6ef8bf4335070c1c64488d8c2baae82.jpg" alt="" border="0" /><br style="font-family: arial;"> <span style="font-family: arial;color:Blue;" ><i>Tsuruta Kōji trong vai Sasaki Kojirō trong bộ 3 phim Miyamoto Musashi của đạo diễn Inagaki Hiroshi</i></span><br style="font-family: arial;"> <br style="font-family: arial;"> <br style="font-family: arial;"> <b style="font-family: arial;"><span style="font-size:130%;"><span style="color:Red;">Tính cách</span></span></b><br style="font-family: arial;"> <br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> Nhân vật Sasaki Kojirō được đại đa số dân Nhật cho rằng là người ngạo mạn bất tôn, tuy có tài nhưng ba hoa lắm tật, lại xảo quyệt gian manh. Quan niệm này xuất phát từ cuốn tiểu thuyết "Miyamoto Musashi" của văn hào Yoshikawa Eiji, trong đó Kojirō là đối thủ chính của nhân vật chính là Musashi được mô tả với những đặc tính tốt đẹp của dân tộc Nhật còn Kojirō thì hoàn toàn ngược lại. Tác giả Yoshikawa còn miêu tả Kojirō như một kẻ đồng bóng, thích ăn mặc lòe loẹt, đỏm dáng. Trong "Kōdan Miyamoto Musashi" của diễn giả Itō Ryōchō cũng mô tả Sasaki Ganryū Kojirō như kẻ quỷ quyệt, láu cá. Một số truyện ký, ký sự cổ từ thời Edo cũng nhìn nhận Kojirō với những tính cách tiêu cực như vậy.</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> Tuy nhiên cũng có những quan điểm ủng hộ Kojirō, phản bác lại cách nhìn nhận truyền thống đối với nhân vật này. Điển hình là nhà văn Murakami Genzō trong tiểu thuyết "Sasaki Kojirō" của mình cũng đã miêu tả nhân vật này với những tính cách tích cực và nhìn nhận tiêu cực về Miyamoto Musashi. Họa sĩ truyện tranh Inoue Takehiko thì miêu tả Kojirō trong tác phẩm Vagabond của mình là một kiếm khách thiên tài nhưng câm điếc bẩm sinh, mang nhiều nét thơ ngây và ít nhiều thể hiện thiện cảm đối với nhân vật này, dù nhân vật chính của tác phẩm vẫn là Musashi.</span><br style="font-family: arial;"> <br style="font-family: arial;"> <img style="font-family: arial;" src="http://images-jp.amazon.com/images/P/B00023BNFQ.09.LZZZZZZZ.jpg" alt="" border="0" /><br style="font-family: arial;"> <i style="font-family: arial;"><span style="color:Blue;">Watanabe Ken trong vai Kojirō (phải) trong phim Ganryū-jima</span></i><br style="font-family: arial;"> <br style="font-family: arial;"> <b style="font-family: arial;"><span style="font-size:130%;"><span style="color:Red;">Tuyệt kỹ Tsubame-gaeshi</span></span></b><br style="font-family: arial;"> <br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> Tuyệt chiêu của Sasaki Kojirō thường được nhắc đến là "Tsubame-gaeshi" (én lượn) với đặc trưng là hai nhát chém chớp nhoáng theo hướng ngược nhau. Sở dĩ chiêu thức này có tên như vậy là vì nó mô phỏng động tác bay lượn của chim én, nhanh gọn và đảo hướng bất ngờ. Kojiō sáng tạo nên tuyệt kỹ này khi quan sát én bay trên cầu Kintai ở xứ Iwakuni. Tuy nhiên, trong một phim tài liệu trên đài Terebi Asahi vào năm 2007, có chứng cớ cho thấy rằng Tsubame-gaeshi chỉ là sản phẩm của hậu thế gán cho Kojirō vào khoảng 60 năm sau ngày quyết đấu trên đảo Ganryū. Theo phim tài liệu này thì nguyên bản của chiêu thức Tsubame-gaeshi chính là chiêu kiếm Torakiri. </span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> Trong "Kōdan Miyamoto Musashi", diễn giả Itō Ryōchō kể rằng Kojirō hội đắc được kiếm pháp này khi chém đứt cánh chim én bay vào nhà. Chim én là loài bay lượn vô địch trên trời, nhưng tuyệt kỹ Tsubame-gaeshi của Sasaki Kojirō có thể chém rụng cánh én nhờ tốc độ thần sầu và độ chính xác của nó. Nhiều phái kiếm cổ như Yagyū-ryū cũng có chiêu thức Tsubame-gaeshi với hai nhát chém thần tốc ngược hướng nhau, thường là nhát đầu tiên bổ thẳng từ trên xuống và ngay sau đó là nhát chém ngược từ dưới lên.</span><br style="font-family: arial;"> <br style="font-family: arial;"> <b style="font-family: arial;"><span style="font-size:130%;"><span style="color:Red;">Sasaki Kojirō trong văn hóa đại chúng</span></span></b><br style="font-family: arial;"> <br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> Hình tượng Sasaki Kojirō rất phổ biến trong văn hóa đại chúng Nhật Bản, và thường xuất hiện trong vai trò đối lập với nhân vật Musashi.</span><br style="font-family: arial;"> <br style="font-family: arial;"> <b style="font-family: arial;">Phim ảnh</b><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + Sasaki Kojirō (1950, nguyên tác Murakami Genzō, đạo diễn Inagaki Hiroshi, tài tử Ōtani Tomoemon thủ diễn)</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + Zoku Sasaki Kojirō (1951, nguyên tác Murakami Genzō, đạo diễn Inagaki Hiroshi, tài tử Ōtani Tomoemon thủ diễn)</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + Kanketsu Sasaki Kojirō (1951, nguyên tác Murakami Genzō, đạo diễn Inagaki Hiroshi, tài tử Ōtani Tomoemon thủ diễn)</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + Kettō Ganryū-jima (1956, nguyên tác Yoshikawa Eiji, đạo diễn Inagaki Hiroshi, tài tử Tsuruta Kōji diễn)</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + Miyamoto Musashi Nitō-ryū Kaigan (1963, nguyên tác Yoshikawa Eiji, đạo diễn Uchida Tomu, tài tử Takakura Ken diễn)</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + Miyamoto Musashi Ichijō-ji no kettō (1964, nguyên tác Yoshikawa Eiji, đạo diễn Uchida Tomu, tài tử Takakura Ken diễn)</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + Miyamoto Musashi Ganryū-jima no kettō (1965, nguyên tác Yoshikawa Eiji, đạo diễn Uchida Tomu, tài tử Takakura Ken diễn)</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + Sasaki Kojirō (1967, Murakami Genzō, đạo diễn Inagaki Hiroshi, tài tử Onoue Kikunosuke)</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + Miyamoto Musashi (1973, nguyên tác Yoshikawa Eiji, đạo diễn Katō Tai, Tamiya Jirō diễn)</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + Makai Tenshō (1981, nguyên tác Yamada Fūtarō, Shirai Jirō diễn)</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + Ganryū-jima GANRYUJIMA (2003, đạo diễn Chiba Seiji, Nishimura Masahiko diễn)</span><br style="font-family: arial;"> <br style="font-family: arial;"> <b style="font-family: arial;">Phim truyền hình</b><br style="font-family: arial;"> <br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + Miyamoto Musashi (1961, Fuji Terebi, Nakaya Noboru diễn)</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + Sorekara no Musashi (1964, 1965, Mainichi Hōsō, Utsui Ken diễn)</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + Miyamoto Musashi (1965, Nihon Terebi, Nakatani Ichirō diễn)</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + Miyamoto Musashi (1970, NET, Yamazaki Tsutomu diễn)</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + Miyamoto Musashi (1975, Kansai Terebi, Hamahata Kenkichi diễn)</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + Miyamoto Musashi (1984, NHK Taiga Drama, Naka Kōji diễn)</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + Miyamoto Musashi (1990, Terebi Tōkyō, Murakami Hiroaki diễn)</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + Ganryū-jima (1992, NHK, Watanabe Ken diễn)</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + Tokugawa Kengōden Sorekara no Musashi (1996, Terebi Tōkyō, Takuma Shin diễn)</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + Miyamoto Musashi (2001, Terebi Tōkyō, Yoshida Eisaku diễn)</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + Musashi MUSASHI (2003, NHK Taiga Drama, Matsuoka Masahiro diễn)</span><br style="font-family: arial;"> <br style="font-family: arial;"> <b style="font-family: arial;">Manga</b><br style="font-family: arial;"> <br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + Vagabond (nguyên tác Yoshikawa Eiji, vẽ tranh Inoue Takehiko)</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + GANRYU</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + YAIBA</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + Gag Manga Biyori</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + Fate/stay_night</span><br style="font-family: arial;"> <br style="font-family: arial;"> <b style="font-family: arial;">Video Game</b><br style="font-family: arial;"> <br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + Series Kengō (Genki phát hành)</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + Series Nobunaga no Yabō (Koei phát hành)</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + Series Taikō Risshiden (Koei phát hành)</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + Sengoku Musō 2 Mōshōden (Koei phát hành)</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + Musō OROCHI Maō sairin (Koei phát hành)</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + THE Kassen Sekigahara (3D Publisher)</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + Aku daikan 2 (GAE)</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + Edo mono (GAE)</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + Ryū ga gotoku kenzan (Sega)</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + Fate/stay_night</span><br style="font-family: arial;"><span style="font-family: arial;"> + LORD of VERMILION Re:2(SQUARE ENIX) </span>ahttp://www.blogger.com/profile/17720048983692356076noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-225269385787112915.post-20014052083554258862012-02-19T17:50:00.000+09:002012-02-19T18:08:42.478+09:00Ittō Ittōsai<b style="font-family: arial;"><span style="font-size:6;"><span style="color:#008000;">Ittō Ittōsai</span></span></b><br /> <br /> <b style="font-family: arial;">Ittō Ittōsai</b><span style="font-family: arial;"> (伊東 一刀斎, năm sinh năm mất không rõ) là một kiếm khách Nhật Bản sống thời Chiến quốc cho đến đầu thời Edo. Ông họ là Itō, hiệu là Kagehisa, tục danh là Maebara Yagorō. Itō Ittōsai được cho là khai tổ của phái kiếm Ittō-ryū (Nhất đao lưu) cực thịnh vào thời Edo nhưng bản thân ông chưa bao giờ xưng lưu phái của mình là </span><b style="font-family: arial;">Ittō-ryū</b><span style="font-family: arial;">. Các đệ tử của ông có những người nổi tiếng như Ono Zenki, Kotōda Toshinao và </span><b style="font-family: arial;">Ono Tadaaki</b><span style="font-family: arial;">.</span><br /> <br /> <br /> <a style="font-family: arial;" href="http://i.imgur.com/iq0KR.jpg" class="highslide"><img src="http://i.imgur.com/iq0KR.jpg" alt="" border="0" /></a><br /> <i style="font-family: arial;"><span style="color:#0000ff;">Ittō Ittōsai trong Manga "Vagabond" dưới nét vẽ của họa sĩ Inoue Takehiko</span></i><br /> <br /> <br /> <span style="font-family: arial;color:#008000;" ><b><span style="font-size:130%;">Lai lịch</span></b></span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> Về lai lịch của Ittōsai thì có nhiều thuyết khác nhau và đến giờ vẫn chưa thể đánh giá được đâu là đúng. Về năm sinh thì có thuyết nói Ittōsai sinh năm 1550 (niên hiệu Tenmon thứ 5), có thuyết nói sinh năm 1560 (Eiroku thứ 3), mất năm 1628 (Kan-ei thứ 5), lại có thuyết nói ông mất vào năm 1632 khi đã 90 tuổi. Nhưng tựu trung đều thống nhất rằng Ittōsai là người quận Itō thuộc xứ Izu ngày xưa, lấy nơi xuất thân làm họ. Tuy nhiên tại Itō, địa phương được cho là nơi xuất thân của Ittōsai thì lại hoàn toàn không lưu truyền một huyền thoại, giai thoại nào về nhân vật Itō Ittōsai này. Tuy nhiên, nếu dựa theo giai thoại về thanh kiếm Kamewari-tō (kiếm chém bình) thì thấy Ittōsai xuất thân từ Izu Ōshima, một hòn đảo phía Bắc quần đảo Izu. Năm 14 tuổi, Itō bám theo một tấm khung cửa bơi đến Mishima, tỷ thí với viên tư tế quản đền thờ ở đó là Toda Ippō. Itō thắng trận tỷ thí và được tư tế ban cho bảo kiếm. Một lần khác Itō dùng kiếm này chém chết 7 tên đạo tặc, tên cuối cùng trốn vào trong chiếc bình to và Itō dùng kiếm chém đứt đôi cái bình lẫn người bên trong. Vì thế thanh kiếm có tên là </span><b style="font-family: arial;">Kamewari-tō</b><span style="font-family: arial;">.</span><br /><span style="font-family: arial;"> Tuy nhiên, theo sách "Ittō-ryū densho" thì Itō ra đời ở miền Tây Nhật Bản và theo Yamada Jirōkichi, một kiếm thuật gia nổi danh thời Meiji thì trong truyền thư của phái kiếm Kotōda-ryū có ghi chép chuyện Ittōsai ra đời ở Katata thuộc xứ Ōmi. Lại theo sách "Ehon Eiyū Bidan" thì Ittōsai là người vùng Kanazawa xứ Kaga hay vùng Tsuruga xứ Echizen, là kiếm sư của võ tướng Ōtani Yoshitsugu, thành chủ Tsuruga. Vị võ tướng này sau tử chiến trong trận Sekigahara nên Ittōsai trở thành võ sĩ vô chủ, sau về ở ẩn ở xứ Shimōsa đến cuối đời. Về nơi chết của Ittōsai, cũng có thuyết cho rằng ông chết ở thành phố Sasayama thuộc xứ Tamba.</span><br /> <br /> <br /> <b style="font-family: arial;"><span style="font-size:130%;"><span style="color:#008000;">Sư phụ của Ittōsai và cực ý kiếm thuật</span></span></b><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> Theo sách "Ittō-ryū no Gokui" (cực ý của phái kiếm Ittō-ryū, tác giả Sasamori Junzō) thì Itō đến Edo theo học đoản kiếm Kodachi và Chūdachi với </span><b style="font-family: arial;"><span style="color:#ff0000;">Kanemaki Jisai</span></b><span style="font-family: arial;">, cao thủ phái </span><b style="font-family: arial;">Chūjō-ryū</b><span style="font-family: arial;"> nổi danh với cực ý "Cao thượng kim cang đao". Yagorō (Ittōsai) ngày đêm luyện tập không ngừng nghỉ khiến Kanemaki Jisai cảm tâm mà trao lại hết 5 điểm cực ý, tuyệt học của môn phái gồm các áo nghĩa bí kiếm là "Diệu kiếm" (</span><b style="font-family: arial;">Myōken</b><span style="font-family: arial;">), "Tuyệt diệu kiếm" (</span><b style="font-family: arial;">Zetsumyōken</b><span style="font-family: arial;">), "Chân kiếm" (</span><b style="font-family: arial;">Shinken</b><span style="font-family: arial;">), "Kim sí điểu vương kiếm" (</span><b style="font-family: arial;">Konjichō Ōken</b><span style="font-family: arial;">) và "Độc diệu kiếm" (Dokumyōken). Một lần nọ Yagorō bị người thiếp yêu lừa gạt, dẫn thích khách đến ám sát trong lúc ngủ. Trong lúc nguy cấp, Yagorō xuất kỳ bất ý đánh ra chiêu thức "Phất xả đao" (</span><b style="font-family: arial;">Hossha-tō</b><span style="font-family: arial;">), sau trở thành một trong các chiêu kiếm cực ý của mình. Một lần khác, trong lúc viếng thăm đền thờ Tsuruga-oka, Yagorō ngộ ra bí kiếm "Mộng tưởng kiếm" (</span><b style="font-family: arial;">Musōken</b><span style="font-family: arial;">) chém chết giặc trong cơn vô thức. Theo sách này thì Yagorō Ittōsai phiêu du khắp các xứ trên toàn cõi Nhật Bản, tỷ thí 33 trận và không bại trận nào.</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> Trong một cuốn sách ghi chép khác của Sanada Shigenobu, một võ tướng sống dưới thời Azuchi đến đầu thời Edo, sách vẫn còn lưu lại đến ngày nay, có mục "Mộng tưởng kiếm tâm pháp thư" chép vào tháng 7 năm Bunroku thứ 4 (1595), rằng có đến hai nhân vật xưng danh Toda Ittōsai. Toda Ittōsai là tên khác của </span><b style="font-family: arial;"><span style="color:#ff0000;">Kanemaki Jisai</span></b><span style="font-family: arial;">, sư phụ của Ittōsai và đây cũng là nhân vật không rõ lai lịch nên có khả năng sự tích, xuất thân của hai thầy trò này trùng lặp với nhau. Lại theo sách "Ngọc Anh thập di" của họ Yagyū thì sư phụ của Ittōsai là Yamazaki Seigen. Thực tế có nhân vật Yamazaki Sakon Shōgen Kagenari là em trai của Toda Shigemasa, cao thủ phái kiếm Toda-ryū lừng danh ở xứ Echigo. Nhân vật Yamazaki Kagenari này cũng là một tay hào kiếm trong phái Toda-ryū nên giới nghiên cứu cũng suy đoán rằng có lẽ nhân vật Yamazaki Seigen này chính là Yamazaki Kagenari.</span><br /> <br /> <br /> <b style="font-family: arial;"><span style="font-size:130%;"><span style="color:#008000;">Tỷ thí với người đại lục</span></span></b><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> Trong những năm Tenshō, Toda Ittōsai có phiêu bạc giang hồ đến xứ Sagami và được rất nhiều người kéo đến xin nhập môn. Khoảng thời gian này Toda Ittōsai nhận Kotōda Toshinao (khai tổ của phái kiếm Kotōda Ittō-ryū, gia thần của họ Hōjō) làm cao đồ. Từ ghi chép này có thể suy đoán rằng Toda Ittōsai chính là Itō Ittōsai. Năm Tenshō thứ 6 (1578), có một người Hoa tên Thập Quan, cao thủ đao thuật Trung Quốc cập bến Sagami, tỷ thí với Ittōsai. Ittōsai tay mang cầm một chiếc quạt đã đánh bại Thập Quan dùng mộc đao.</span><br /><span style="font-family: arial;"> Hoa kiều đến định cư tại Nhật Bản, khi lấy tên Nhật thì thường thêm từ "Quan" trong tên để không quên nguồn gốc. Do vậy trong tâm thức người Nhật, những cái tên "~ Quan" là để chỉ Hoa kiều định cư tại nước này. Đương thời người Nhật chưa biết nhiều về tên họ người Hoa nên "~ Quan" chỉ là những cái tên chung chung dùng để chỉ người Hoa tại Nhật. Do đó rất có thể Thập Quan chỉ là cái tên chung vì không xác định được danh tính của nhân vật đó mà thôi.</span><br /><span style="font-family: arial;"> Trong tùy bút "Mimibukuro" vào cuối thời Edo có ghi lại chuyện đệ tử của Ittōsai là Ono Tadaaki dùng quạt sắt đánh bại đối thủ mang mộc kiếm. Về nội dung thì hoàn toàn giống với câu chuyện của Ittōsai và đến nay vẫn chưa xác minh được câu chuyện này có thật hay chỉ vì hậu nhân yêu thích câu chuyện của Ittōsai mà chép lại, hoặc giả là dựng nên để tuyên truyền cho thuật đánh quạt sắt (Tessen) vốn là một loại võ thuật hộ thân thời bấy giờ.</span><br /> <br /> <b style="font-family: arial;"><span style="font-size:130%;"><span style="color:#008000;">Hệ thống lưu phái Ittō-ryū</span></span></b><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> Theo hai tập sách cổ "Ittō-ryū Kōdensho" và "Gekken Sōdan", Ittōsai cho hai cao đồ là Ono Zenki và Mikogami Tenzen tỷ thí với nhau ở xứ Shimōsai. Người thắng cuộc là Tenzen được Ittōsai truyền thụ lại hết bí kỹ của môn phái. Bản thân Tenzen sau này cũng được Ittōsai tiến cử với Tướng quân Tokugawa Ieyasu, đến năm Bunroku thứ 2 (1593) thì được trọng dụng với bổng lộc 200 hộc. Tenzen sau này đổi sang họ mẹ là Ono, xưng danh là Tadaaki. Con trai của Tadaaki là Ono Tadatsune sau dựng nên Onoha Ittō-ryū (phái Ittō-ryū, nhánh Ono), trong khi đó em trai của Tadaaki là Itō Tenzen Tadanari cũng gây dựng nên Itōha Ittō-ryū (phái Ittō-ryū, nhánh Itō). </span><br /><span style="font-family: arial;"> Về sau, các nhánh này còn phân thêm nhiều nhánh nhỏ khác nữa, nhưng tựu trung là đều bắt nguồn từ Ittō-ryū của Ittōsai và có ảnh hưởng nhiều đến Kendō hiện đại.</span><br /> <br /> <b style="font-family: arial;"><span style="font-size:130%;"><span style="color:#008000;">Tiểu thuyết</span></span></b><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> Nhân vật Itō Ittōsai còn xuất hiện trong một số tiểu thuyết thời đại như</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + "Nihon kenkiden Itō Ittōsai" (Truyện quỷ kiếm Nhật Bản Itō Ittōsai), tác giả Mine Ryū Ichirō</span><br /><span style="font-family: arial;"> + "Kensei Itō Ittōsai" (Kiếm thánh Itō Ittōsai, bộ 5 tập), tác giả Nitta Yoshio.</span><br /><span style="font-family: arial;"> + "Itō Ittōsai" (bộ 3 cuốn thượng, trung, hạ), tác giả Tobe Shinjūrō</span><br /><span style="font-family: arial;"> + "Itō Ittōsai" (bộ 2 cuốn thượng, hạ), tác giả Yoshimura Ken-ichi</span><br /><span style="font-family: arial;"> + "Tenka ichi no ken" (thiên hạ đệ nhất kiếm), tác giả Kojima Hideki</span><br /><span style="font-family: arial;"> + "Kengō Ittōsai" (Kiếm hào Ittōsai), tác giả Shibata Tei. </span>ahttp://www.blogger.com/profile/17720048983692356076noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-225269385787112915.post-64862082401449727882012-02-08T23:04:00.001+09:002012-02-08T23:04:24.733+09:00Kanemaki Jisai<b style="font-family: arial;"><span style="font-size:180%;"><span style="color:#008000;">Kanemaki Jisai</span></span></b><br /> <br /> <b style="font-family: arial;">Kanemaki Jisai </b><span style="font-family: arial;">(鐘捲 自斎) là một kiếm hào thời Chiến quốc, khai tổ của phái kiếm Kanemaki-ryū, một phân nhánh của Chūjō-ryū. Ông được cho là sư phụ của Itō Ittōsai và cho đến nay người ta vẫn chưa xác định chính xác năm sinh và năm mất của ông.</span><br /><span style="font-family: arial;"> Kanemaki Jisai có thông gia họ Toda (外他), sau theo học kiếm pháp với Toda (富田) Jibusaemon (Toda Kagemasa), một cao thủ phái kiếm Toda-ryū và cũng là thầy dạy kiếm cho họ Asakura, một hào tộc ở xứ Echizen. Người ta cho rằng trong thời gian này ông xưng danh là Toda Ittōsai và được gọi là tam kiệt của họ Toda cùng với Yamazaki Sakon Shōgen, Hasegawa Munenobu.</span><br /><span style="font-family: arial;"> Đệ tử của Jisai thì có Maebara Yagorō, người này được sư phụ trao cho danh hiệu "Ittōsai" và kể từ đó, Yagorō xưng danh là Itō Ittōsai và sau này gây dựng nên phái kiếm Ittō-ryū. Nhiều tài liệu cho thấy Jisai đã truyền lại cực ý của môn phái là "Cao thượng cực ý ngũ điểm" cho học trò Itō Ittōsai. Và cũng vì có thời gian Jisai xưng danh là Toda Ittōsai nên cũng có thuyết cho rằng hai nhân vật Ittōsai này cùng là một người. Itō Ittōsai có một cao đồ tên là Kotōda Kageyuzaemon, tự xưng môn phái của mình là Toda Ittō-ryū và cũng có thời gian Jisai xưng môn phái của mình là Kanemaki Toda-ryū nên mới dẫn đến thuyết hai sư đồ Kanemaki Jisai và Itō Ittōsai cùng là một người. Ngoài ra Kanemaki Jisai còn có một người đệ tử nổi danh khác là Sasaki Kojirō.</span><br /><span style="font-family: arial;"> Toàn bộ đạo học của Kanemaki Jisai được Nakamura Ujike kế thừa. Người này sau làm hộ vệ cho một phiên chúa ở Sendai. </span>ahttp://www.blogger.com/profile/17720048983692356076noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-225269385787112915.post-42497007089814062322012-01-23T15:52:00.000+09:002012-01-23T15:53:24.345+09:00Song kiếm<b style="font-family: arial;">Nitō-ryū</b><span style="font-family: arial;"> (二刀流, âm Hán Việt: nhị đao lưu) là danh từ tổng hợp để chỉ kỹ thuật dụng kiếm, tấn công và phòng thủ hợp nhất bằng cách vận dụng hai thanh kiếm trên hai tay tả hữu. Kỹ thuật này còn được gọi là </span><b style="font-family: arial;">Nitō Kempō</b><span style="font-family: arial;"> (二刀剣法, nhị đao kiếm pháp) trong võ học Nhật Bản. Danh từ này còn được dùng để chỉ kỹ thuật vận dụng hai loại vũ khí khác bằng ở hai tay tả hữu. Danh từ này đối lập với </span><b style="font-family: arial;">Ittō-ryū</b><span style="font-family: arial;"> (nhất đao lưu), kỹ thuật dụng một thanh kiếm bằng cả hai tay, vốn là thường thức trong kiếm thuật Nhật Bản.</span><br /> <br /> <a style="font-family: arial;" href="http://i.imgur.com/vnh4s.gif" class="highslide"><img src="http://i.imgur.com/vnh4s.gif" alt="" border="0" /></a><a style="font-family: arial;" href="http://media.comicvine.com/uploads/4/41615/948522-akechi_samanosuke_super.jpg" class="highslide"><img src="http://media.comicvine.com/uploads/4/41615/948522-akechi_samanosuke_super.jpg" alt="" border="0" /></a><br /> <br /> <br /> <span style="font-family: arial;font-size:130%;" ><b><span style="color:#ff0000;">Song kiếm Nhật Bản</span></b></span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> Hình thức cơ bản nhất của các phái song kiếm Nhật Bản là cầm kiếm chính (kiếm dài, </span><b style="font-family: arial;">Honzashi</b><span style="font-family: arial;">) bằng tay thuận và kiếm phụ (kiếm ngắn, Wakizashi) ở tay còn lại. Kiếm Nhật vốn dài và nặng, được chế tạo với mục đích cầm bằng hai tay nên kỹ thuật đánh song kiếm bằng kiếm Nhật rất khó hội đắc. Vì vậy có rất ít lưu phái tập trung chủ yếu vào lối đánh song kiếm. Trong cả nghìn phái kiếm Nhật tự cổ chí kim, chỉ có vài lưu phái là truyền thụ kỹ thuật này. Trong Kendō, môn </span><b style="font-family: arial;">thể thao</b><span style="font-family: arial;"> phát sinh từ kiếm thuật Nhật Bản cổ cũng thấy có nhiều Kendōka sử dụng song kiếm. Cũng có phái kiếm Ittō-ryū ban đầu tập luyện song kiếm cho quen tay rồi sau trở lại cầm một kiếm bằng hai tay.</span><br /><span style="font-family: arial;"> Kỹ thuật đánh song kiếm chủ yếu được truyền dạy trong các phái võ nghệ cổ, có phái dạy cầm kiếm chính bằng tay thuận và cũng có phái cầm kiếm chính bằng tay nghịch. Cũng có một số ít lưu phái sử dụng cả hai kiếm phụ (Wakizashi) ở cả hai tay. Ngoài ra còn thấy có thuật đánh Jitte ở cả hai tay như song kiếm hoặc dùng hai lưỡi hái cùng lúc. Trong Shurikenjutsu cũng tồn tại một loại kỹ thuật cầm kiếm ở một tay và tay nghịch cầm Shuriken. </span><br /><span style="font-family: arial;"> Trong các lưu phái lấy kỹ thuật đánh song kiếm làm trọng tâm thì có phái Niten Ichi-ryū do </span><b style="font-family: arial;">Miyamoto Musashi</b><span style="font-family: arial;"> sáng lập là nổi tiếng nhất. Ngoài ra, lịch sử còn ghi nhận Nitta Yoshisada, một võ tướng sống vào thời Kamakura cũng là một đại cao thủ sử dụng song kiếm. Trong Taiheiki (Thái bình ký) có những đoạn miêu tả Nitta hai tay cầm hai đại kiếm chém rơi tên bắn về phía mình. Trong các phái võ cổ ở Okinawa, nơi chịu nhiều ảnh hưởng của Trung Hoa và Đông Nam Á, còn thấy có những kỹ thuật đánh Sai và Tonfa ở cả hai tay.</span><br /> <br /> <br /> <b style="font-family: arial;"><span style="font-size:130%;"><span style="color:#ff0000;">Song kiếm các nước</span></span></b><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> Tương tự Nhật Bản, người Châu Âu cũng có kỹ thuật đánh hai kiếm, tay phải cầm kiếm Rapier và tay trái cầm đoản kiếm Main-gauche. Nhìn từ góc độ của kiếm Tây (Fencing) và Kendō thì kỹ thuật này khá kỳ dị, nhưng sự kết hợp giữa Rapier và Main-gauche lại cực kỳ phổ biến ở phương Tây. Kỹ thuật này thường thấy ở Ý trong thời kỳ phục hưng. Nguyên lai, kỹ thuật đánh kiếm của phương Tây coi thanh kiếm ở tay phải để tấn công, còn tay trái cầm khiên để phòng thủ nên kỹ thuật song kiếm với kiếm ngắn ở tay trái cũng không trái với lối suy nghĩ của người Tây. Hơn nữa, lối đánh này chủ yếu dùng đòn đâm nên có ưu điểm dễ phòng ngự hơn đòn chém. Đoản kiếm Main-gauche thường có đốc kiếm lớn hoặc đốc kiếm dạng móc như Jitte nên khi đỡ kiếm của đối phương thì không còn linh hoạt được nữa. Lợi điểm của lối đánh song kiếm với một tay cầm kiếm ngắn là có thể kiểm soát tình huống ở khoảng cách xa và gần, nhất là khi hai đấu thủ đang ở khoảng cách xa, bất ngờ tăng tốc tiếp cận nhau thì dù nhát đánh thứ nhất bằng kiếm dài không thành công cũng có thể ra đòn tiếp theo bằng kiếm ngắn. </span><br /><span style="font-family: arial;"> Trung Hoa cũng có kỹ thuật đánh song kiếm, song đao, ở Đông Nam Á cũng thấy có những kỹ thuật đánh hai gậy, hai đoản kiếm hay hai trường kiếm trong các môn võ Sillat và Eskrima.</span><br /> <br /> <b style="font-family: arial;"><span style="font-size:130%;"><span style="color:#ff0000;">Song kiếm Nhật Bản trong thể thao</span></span></b><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> Trong Kendō, Nitō-ryū được thừa nhận trong các giải đấu chính thức, và nó cũng được gỡ bỏ lệnh cấm từ năm 1992 trong các giải đấu học sinh. Trong thi đấu, kiếm ngắn Kodachi chủ yếu được dùng để đỡ và gạt kiếm của đối phương và kiếm dài Tachi dùng để đánh vào người đối phương, ghi điểm. Về cơ bản thì đòn đánh vào người đối phương bằng kiếm ngắn Kodachi không được xem là đòn đánh hiệu lực. Nói một cách kỹ càng thì đòn đánh bằng Kodachi vẫn được xem là đòn đánh hiệu lực, nhưng vì phạm vi tấn công hẹp nên rất khó để ra đòn hoàn hảo bằng Kodachi nên không được xem là đòn đánh hiệu lực. Mặt khác, kiếm dài Tachi của các đấu sĩ Nitō-ryū cũng ngắn hơn kiếm bình thường nên đòn đâm ngực đối với đấu sĩ Nitō-ryū không được thừa nhận từ năm Heisei thứ 7 (1995) theo luật sửa đổi.</span><br /> <br /> <b style="font-family: arial;"><span style="font-size:130%;"><span style="color:#ff0000;">Nitō-ryū trong tiếng Nhật</span></span></b><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> Nitō-ryū, ngoài nghĩa là phái song kiếm, lối đánh hai kiếm thì từ này còn mang ý nghĩa "lưỡng thê", "lưỡng cư", "xăng pha nhớt" trong cảm giác của người Nhật. Nitō-ryū còn là ẩn ngữ, tiếng lóng chỉ người đồng tính (nhất là nam). Nitō-ryū cũng dùng để chỉ người thích uống rượu và ăn đồ ngọt, vì phần đông người thích uống rượu thì ngán đồ ngọt.</span><br /><span style="font-family: arial;"> Trong bóng chày, người ta cũng gọi các tuyển thủ đánh bóng được cả hai tay (Switch hitter), tuyển thủ làm nhiệm vụ ném bóng kiêm bắt bóng là Nitō-ryū.</span><br /> <br /> <b style="font-family: arial;"><span style="font-size:130%;"><span style="color:#ff0000;">Các phái song kiếm tồn tại đến ngày nay</span></span></b><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> * Niten Ichi-ryū (dạy chính là song kiếm)</span><br /><span style="font-family: arial;"> * Musashi Enmei-ryū</span><br /><span style="font-family: arial;"> * Tenshin Shōden Katori Shintō-ryū</span><br /><span style="font-family: arial;"> * Shinkage-ryū</span><br /><span style="font-family: arial;"> * Shingyōtō-ryū</span><br /><span style="font-family: arial;"> * Ryūgō-ryū</span><br /><span style="font-family: arial;"> * Kageyama-ryū</span><br /><span style="font-family: arial;"> * Ōishi Shinkage-ryū</span><br /><span style="font-family: arial;"> * Tokuei Sō-ryū</span><br /><span style="font-family: arial;"> * Shibukawa-ryū</span><br /><span style="font-family: arial;"> * Shindō Musō-ryū Jōjutsu</span><br /><span style="font-family: arial;"> * Komagawa Kaishin-ryū</span><br /><span style="font-family: arial;"> * Daitō-ryū (phái này chủ yếu dạy Hiệp khí Nhu thuật)</span><br /><span style="font-family: arial;"> * Yagyū Shingan-ryū</span><br /><span style="font-family: arial;"> * Tendō-ryū</span><br /><span style="font-family: arial;"> * Ikkaku-ryū</span><br /><span style="font-family: arial;"> * Asayama Ichiden-ryū </span>ahttp://www.blogger.com/profile/17720048983692356076noreply@blogger.com1tag:blogger.com,1999:blog-225269385787112915.post-63945851638963623352012-01-08T01:07:00.002+09:002012-01-11T22:42:19.817+09:00Manga: Azumi<p><span><b>Azumi</b> (biểu ký bằng <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/Hiragana" title="Hiragana">Hiragana</a>: あずみ) là tên một tác phẩm <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/Manga" title="Manga">Manga</a> thể loại hành động của họa sĩ <a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Koyama_Y%C5%AB&action=edit&redlink=1" class="new" title="Koyama Yū (trang chưa được viết)">Koyama Yū</a> và cũng là tên hai bộ phim cùng tên được dựng từ tác phẩm Manga này.</span></p> <div style=""><br /><li><img style="display: block;" src="http://2.bp.blogspot.com/-l8FL4EJ8Lq4/TwggGIZklSI/AAAAAAAACwI/hu4qm6yE62c/-d/%5BCMVN%5D_azumi010001.jpg" /></li></div> <h2><span class="mw-headline" id="Kh.C3.A1i_y.E1.BA.BFu"><span>Khái yếu</span></span></h2> <p><span>Tác phẩm này được đăng tải liên tục từ năm 1994 cho đến năm 2008 trên tạp chí Manga của nhà xuất bản Shōgakukan là Big Comic Superior thì hoàn tất bộ 1. Bộ 1 gồm 48 cuốn in thành khổ bỏ túi (<a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/Tank%C5%8Dbon" title="Tankōbon">Tankōbon</a>). Bộ 2 của tác phẩm này mang tên AZUMI, biểu ký bằng chữ La Tinh chứ không bằng chữ Hiragana như bộ 1, bối cảnh là cuối thời Mạc phủ. Tác phẩm này từng nhận được giải thưởng ưu tú nhất của bộ môn Manga tại hội văn hóa nghệ thuật Media vào năm 1997 và giải thưởng Manga của Shōgakukan lần thứ 43 dành cho bộ môn thanh thiếu niên vào năm 1998.</span></p> <h2><span> <span class="mw-headline" id="N.E1.BB.99i_dung">Nội dung</span></span></h2> <p><span>Đầu thời <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BA%A1c_ph%E1%BB%A7_Edo" title="Mạc phủ Edo" class="mw-redirect">Mạc phủ Edo</a>, để tiêu diệt mọi mầm mống phản loạn và gây dựng nên thời thái bình vững chải, chính quyền Edo đã bí mật xây dựng một tập đoàn thích khách bằng cách nuôi dạy bọn trẻ mồ côi trở thành những sát thủ hạng nhất. Tác phẩm này miêu tả cuộc chiến giữa Azumi, một trong những đứa trẻ được nuôi dạy thành sát thủ và các vị chư hầu đang âm mưu lật đổ chính quyền Mạc phủ Edo. Thông qua đó tác phẩm cũng mô tả nỗi khổ tâm của thiếu nữ vô cấu Azumi khi phải ra tay giết người để củng cố nền hòa bình của đất nước. Tác phẩm cũng nói lên nỗi bất an của một xã hội trong thời kỳ quá độ, những bất mãn của tầng lớp <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/Samurai" title="Samurai">Samurai</a> trong buổi giao thời từ Chiến quốc sang một thời đại hòa bình mới, trong đó vai trò của người võ sĩ ngày càng mờ nhạt đi.</span></p> <p><span><br /></span></p> <h2><span class="mw-headline" id="Nh.C3.A2n_v.E1.BA.ADt_ch.C3.ADnh_trong_t.C3.A1c_ph.E1.BA.A9m"><span>Nhân vật chính trong tác phẩm</span></span></h2> <dl> <dt><span>Azumi</span></dt> <dd><span>Nhân vật chính của tác phẩm, một trong số các thích khách tinh anh được Obata Gessai nuôi dạy. Azumi là thiếu nữ thơ ngây, trong sáng và được lũ trẻ yêu thích. Thân thế thực sự của Azumi không được nhắc đến trực tiếp trong tác phẩm nhưng qua lời kể của các nhân vật thì hình như Azumi là con lai giữa một phụ nữ Nhật và một người Tây phương. Azumi sở hữu thị lực và tinh thần mẫn cảm phi thường, sử dụng thông thạo thanh kiếm hai đầu.</span></dd> <dt><span>Obata Gessai</span></dt> <dd><span>Là một kiếm sư tài ba, người nuôi dạy Azumi cùng bọn trẻ mồ côi. Từng trải qua mất mát chiến hữu thân thiết nhất của mình trong thời loạn lạc. Gessai tôn kính nhà sư Tenkai và nhận mệnh lệnh từ Tenkai, bí mật nuôi dạy bọn trẻ mồ côi thành những cỗ máy giết người. Gessai là người hoàn thành mọi nhiệm vụ của Tenkai giao cho, nhưng cuối cùng vì âm mưu của <a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Yagy%C5%AB_Munenori&action=edit&redlink=1" class="new" title="Yagyū Munenori (trang chưa được viết)">Yagyū Munenori</a> mà bị thích khách họ Yagyū ám sát chết.</span></dd> </dl> <dl> <dt><a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Nank%C5%8Db%C5%8D_Tenkai&action=edit&redlink=1" class="new" title="Nankōbō Tenkai (trang chưa được viết)"><span>Nankōbō Tenkai</span></a></dt> <dd><span>Hình tượng nhà sư này được xây dựng dựa trên hình mẫu nhân vật lịch sử, là quân sư của <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/Tokugawa_Ieyasu" title="Tokugawa Ieyasu">Tokugawa Ieyasu</a>, trụ trì chùa Kita-in, là <a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=%C4%90%E1%BA%A1i_t%C4%83ng_ch%C3%ADnh&action=edit&redlink=1" class="new" title="Đại tăng chính (trang chưa được viết)">Đại tăng chính</a> của Phật giáo Thiên thai. Sư Tenkai được Ieyasu đánh giá là "biết quá nhiều thứ", tính cách của nhân vật này trong tác phẩm cũng là điều bí ẩn, tuổi tác cũng mơ hồ. Để bình định thiên hạ, Tenkai ngầm ra lệnh cho Obata Gessai gây dựng tổ chức thích khách bí mật ám sát của lãnh chúa gây phản loạn. Tenkai là người có trí tuệ thâm sâu, vượt cả Tokugawa và Toyotomi, là người nhìn rõ đại cục thiên hạ và đứng ra bảo hộ Azumi khi bị đám thích khách truy đuổi.</span></dd> <dt><span>Tobizaru</span></dt> <dd><span><a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/Ninja" title="Ninja">Ninja</a> thuộc hạ của <a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Inoue_Kanbei&action=edit&redlink=1" class="new" title="Inoue Kanbei (trang chưa được viết)">Inoue Kanbei</a>, mũi thính đến độ phân biệt được mùi máu. Sau khi Kanbei chết thì trở nên tuyệt vọng, nhưng sau gặp được sư Tenkai thì lại hết lòng hành động vì chủ mới. Về tài năng kiếm thuật thì xếp sau Azumi nhưng nhẫn thuật siêu quần, không ít lần cứu Azumi ra khỏi cảnh nguy khốn. Đây là nhân vật hiếm hoi trong tác phẩm sống sót, sát cánh bên Azumi được lâu dài.</span></dd> <dt><a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Inoue_Kanbei&action=edit&redlink=1" class="new" title="Inoue Kanbei (trang chưa được viết)"><span>Inoue Kanbei</span></a></dt> <dd><span>Cận vệ của tướng <a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Kat%C5%8D_Kiyomasa&action=edit&redlink=1" class="new" title="Katō Kiyomasa (trang chưa được viết)">Katō Kiyomasa</a>. Nếu như nhân vật Kanbei trong lịch sử kết thúc cuộc đời mình trong vai trò một nhà sư sau khi chủ nhân là Katō Tadahiro chết thì trong tác phẩm này, Kanbei quyết tâm báo thù khi song thân và người chị gái bị Tướng quân Tokugawa Ieyasu thảm sát. Chủ nhân của Kanbei là Katō Kiyomasa bị Azumi ám sát, sau đó thủ lãnh mới là <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/Toyotomi_Hideyori" title="Toyotomi Hideyori">Toyotomi Hideyori</a> cũng chịu chung số phận. Khi <a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Th%C3%A0nh_%C5%8Csaka&action=edit&redlink=1" class="new" title="Thành Ōsaka (trang chưa được viết)">thành Ōsaka</a> sụp đổ trước quân đội Tokugawa, Kanbei đơn thương độc mã xông vào trận chính ám sát Ieyasu nhưng sức cùng lực kiệt, mang trọng thương và được Azumi cứu thoát. Sau này Kabei che giấu thân thế, trở thành đệ tử của <a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Ono_Tadaaki&action=edit&redlink=1" class="new" title="Ono Tadaaki (trang chưa được viết)">Ono Tadaaki</a>, chờ ngày báo thù Ieyasu. Nhưng một lần tìm đến võ đường Ono, cận vệ của Ieyasu là <a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Honda_Masazumi&action=edit&redlink=1" class="new" title="Honda Masazumi (trang chưa được viết)">Honda Masazumi</a> khám phá ra thân thế của Kanbei...</span></dd> <dt><a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Yagy%C5%AB_Munenori&action=edit&redlink=1" class="new" title="Yagyū Munenori (trang chưa được viết)"><span>Yagyū Munenori</span></a></dt> <dd><span>Con trai thứ 5 của <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/Yagy%C5%AB_Muneyoshi" title="Yagyū Muneyoshi">Yagyū Muneyoshi</a>, tổ họ Yagyū ở <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/Edo" title="Edo">Edo</a> và là giáo đầu dạy kiếm thuật cho Tướng quân Tokugawa đời thứ 3. Trong trận Ōsaka, Munenori lập được chiến công lấy được 8 đầu tướng địch, được phong lãnh địa 2000 hộc. Munenori là một kiếm sư siêu quần và là một nhà chính trị lỗi lạc, là kiếm khách duy nhất nắm quyền hành về mặt chính trị đương thời. Trong tác phẩm, Munenori lập mưu lợi dụng Azumi để ám sát Ieyasu, sau nhiều lần phái thích khách đi hành thích Azumi.</span></dd> <dt><span>Mogami Bijomaru</span></dt> <dd><span>Cao thủ rút kiếm nhanh (<a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Iai-jutsu&action=edit&redlink=1" class="new" title="Iai-jutsu (trang chưa được viết)">Iai-jutsu</a>), thích khách lợi hại này được Sanada Yukimura thả ra để ám toán bọn Azumi. Bijomaru phục sức như nữ nhân, ngôn động cũng khác gì nữ nhân và tự say mê bản thân đắm đuối. Sát thủ này từng giết chết Hyūga và đánh Gessai trọng thương.</span></dd> </dl> <h2><span class="mw-headline" id="C.C3.A1c_ph.C6.B0.C6.A1ng_ti.E1.BB.87n_truy.E1.BB.81n_th.C3.B4ng_kh.C3.A1c"><span>Các phương tiện truyền thông khác</span></span></h2> <h3><span class="mw-headline" id=".C4.90i.E1.BB.87n_.E1.BA.A3nh"><span>Điện ảnh</span></span></h3> <ul> <li><span><a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Azumi_%28%C4%90i%E1%BB%87n_%E1%BA%A3nh%29&action=edit&redlink=1" class="new" title="Azumi (Điện ảnh) (trang chưa được viết)">Azumi</a> (2003)</span></li> <li><span><a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Azumi_2_Death_or_Love&action=edit&redlink=1" class="new" title="Azumi 2 Death or Love (trang chưa được viết)">Azumi 2 Death or Love</a> (2005)</span></li> </ul> <h3><span class="mw-headline" id="S.C3.A2n_kh.E1.BA.A5u"><span>Sân khấu</span></span></h3> <ul> <li><span>Diễn lần đầu : Ngày 3~26 tháng 4 năm 2005. Tái diễn: tháng 4 năm 2006</span></li> </ul> <h3><span> <span class="mw-headline" id="Game">Game</span></span></h3> <ul> <li><span>Azumi (game Play Station 2)</span></li> </ul> <h3><span class="mw-headline" id="Pachinko"><span>Pachinko</span></span></h3> <ul> <li><span><a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=M%C3%A1y_CR&action=edit&redlink=1" class="new" title="Máy CR (trang chưa được viết)">CR</a> Azumi</span></li> </ul> <h2><span> <span class="mw-headline" id="Li.C3.AAn_k.E1.BA.BFt_ngo.C3.A0i">Liên kết ngoài</span></span></h2> <ul> <li><span><a rel="nofollow" class="external text" href="http://www.esp-web.co.jp/products/azumi/">Azumi</a> (Trang chủ game Azumi trên hệ máy PS2)</span></li></ul>ahttp://www.blogger.com/profile/17720048983692356076noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-225269385787112915.post-11757165170412129162012-01-01T22:47:00.004+09:002012-01-02T10:00:36.137+09:00Đại từ nhân xưng trong tiếng Nhật (1/2)<span style="font-family: arial;">Tôi nghe như vầy, một thuở nọ, người Việt thường kháo nhau rằng tiếng Việt rất phong phú trong việc thể hiện sắc thái biểu cảm của lời nói, đặc biệt là thông qua hệ thống đại từ nhân xưng dày đặc và nghiêm mật. Chẳng hạn, cũng khái niệm "you" trong tiếng Anh nhưng trong tiếng Việt, khi thì "anh", khi thì "chị", khi thì "em", vân vân. Tôi không rành nhiều ngôn ngữ ngoại quốc lắm nhưng tin chắc rằng điều này không phải là đặc trưng của riêng tiếng Việt. Biết đâu trong các thứ tiếng khác, hệ thống đại từ nhân xưng còn phức tạp và tinh mật hơn. </span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> Trong phạm vi hiểu biết của mình, tôi nói tiếng Nhật cũng rất tinh mật và nghiêm ngặt trong việc sử dụng đại từ nhân xưng, không thua gì tiếng Việt. Bài viết này giới thiệu đến bạn đọc các đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai trong tiếng Nhật để giúp bạn đọc phần nào có cái nhìn bao quát hơn về ngôn ngữ Nhật Bản. Có những cái quý bạn đã được biết qua sách vở ở trường lớp, nhưng chắc hẳn cũng có cái chưa gặp lần nào. Thôi thì cứ coi như chuyện trà dư tửu hậu mấy ngày nhàn rỗi đầu năm vậy.</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> Dân tộc nào cũng có niềm tự hào của riêng mình, biết rõ mình, biết rõ người lại càng hay vậy.</span><br /> <br /> <br /> <i style="font-family: arial;">*Lưu ý:</i><span style="font-family: arial;"> bài này có sử dụng ký tự Nhật Bản, nếu máy tính của quý bạn không hiển thị được thì tải font chữ Nhật Bản theo link dưới đây và cài vào máy.</span><br /> <br /> <a style="font-family: arial;" href="http://www.mediafire.com/?dg5otb9hgdm" target="_blank">http://www.mediafire.com/?dg5otb9hgdm</a><br /> <br /> <br /> <b style="font-family: arial;"><span style="font-size:180%;"><span style="color:#008000;">Phần I: đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất</span><br /></span></b><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> Đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất trong tiếng Nhật phần lớn là từ chức năng, nhất là trong tiểu thuyết, Anime hay Manga. Từ chức năng (yakuwari-go) là khái niệm do nhà ngôn ngữ học Kinsui Satoshi đề xuất, chỉ cách sử dụng từ ngữ nhằm gợi lên đặc điểm, phong cách, tuổi tác hay nghề nghiệp của người nói. Các đại danh từ trong bài này sẽ được nhóm theo tính chất của chúng, như phổ thông, lịch sự, lễ phép, cổ phong,..... (bao gồm cả từ địa phương). Và tất cả những từ này đều mang nghĩa chỉ về người nói, tôi, tao, tui, tau, tớ,....</span><br /><span style="font-family: arial;"> Đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất trong tiếng Nhật có đặc điểm là cùng một chữ Hán nhưng tùy trường hợp mà đọc khác nhau và do đó, sắc thái cũng khác nhau.</span><br /> <br /> <b style="font-family: arial;"><span style="font-size:130%;"><span style="color:#ff0000;">Nhóm từ cổ phong</span></span></b><span style="font-family: arial;">: là những đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất được sử dụng thời cổ, hiện tại không còn dùng (trừ một vài trường hợp). Những từ này mang hơi hướng cổ trang, kiếm hiệp, giang hồ...</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + </span><b style="font-family: arial;">Wagahai</b><span style="font-family: arial;"> (我輩, 吾輩, 我が輩, 吾が輩): mang tính tôn đại, trịnh trọng. Từ này nổi tiếng nhờ tác phẩm của văn Natsume Sōseki là "Wagahai wa neko dearu" (tôi là con mèo).</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + </span><b style="font-family: arial;">Soregashi</b><span style="font-family: arial;"> (某): được nam giới thời trung cổ sử dụng, ban đầu mang tính khiêm nhường, sau mang tính trịnh trọng. Chủ yếu được các võ sĩ thời Chiến quốc sử dụng. Lưu ý là 某 còn có nhiều âm đọc khác như kure, nanigashi là đại từ nhân xưng không xác định chỉ người không biết tên.</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + </span><b style="font-family: arial;">Chin</b><span style="font-family: arial;"> (朕): âm Hán Việt là "trẫm", được bậc Đế Vương Trung Hoa thời cổ sử dụng để tự xưng. Tại Nhật, từ này còn thấy trong các công văn của Thiên Hoàng nhưng sau Đệ nhị Thế chiến, từ này dần dà ít được dùng hơn. Thiên Hoàng hiện tại dùng watakushi để tự xưng. Trước chiến tranh, chin chỉ được dùng trong công văn và khi đọc trước đám đông, còn khi nói chuyện thì Thiên Hoàng Shōwa vẫn tự xưng là watashi.</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + </span><b style="font-family: arial;">Maro</b><span style="font-family: arial;"> (麻呂, 麿): thời cổ, từ này được sử dụng trong tên của nam giới (như nhà thơ Kakinomoto Hitono-maro, 柿本人麻呂, thời Asuka) nhưng sau thời Heian thì nó chuyển thành đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất, không phân biệt nam nữ. Hiện nay từ này chỉ còn thấy trong tiểu thuyết, là từ tự xưng của các công hầu.</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + </span><b style="font-family: arial;">Ware, Wa</b><span style="font-family: arial;"> (我・吾): hiện tại không còn sử dụng trong văn nói mà chỉ thấy ở một số công văn mang tính chất trịnh trọng. Hiện tại nó còn được dùng như đại từ nhân xưng ngôi thứ hai trong tiếng địa phương vùng Kansai và dần mất đi cùng với nền giáo dục chuẩn sau thời Meiji. Tuy nhiên hiện nay vẫn còn thấy những cách biểu hiện như waga-ie (我が家, nhà tôi), waga-kuni (我が国, nước ta) nhưng không mang tính trịnh trọng như vốn có của nó.</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + </span><b style="font-family: arial;">Yo</b><span style="font-family: arial;"> (余, 予): được sử dụng sau thời Heian. Trước Đệ nhị Thế chiến, từ này được dùng không phân biệt thân phận vai vế nhưng sau chiến tranh, từ này chủ yếu được các đấng quân vương, phiên chúa sử dụng trong tiểu thuyết, phim ảnh lịch sử, võ hiệp...</span><br /><span style="font-family: arial;"> Vd: một câu nổi tiếng của văn hào Nakazato Kaizan: 余は大衆作家にあらず (yo wa taishū sakka ni arazu): tôi không phải là nhà văn viết tiểu thuyết đại chúng.</span><br /><span style="font-family: arial;"> Vd2: 余は力によって国を興した (trẫm chấn hưng đất nước bằng vũ lực)</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + </span><b style="font-family: arial;">Shōsei</b><span style="font-family: arial;"> (小生): ngày xưa được nam giới dùng với sắc thái khiêm nhường, nay được sử dụng trong thư từ. Âm Hán Việt là "tiểu sinh" và từ này vẫn được sử dụng tại Việt Nam vài chục năm trước. </span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + </span><b style="font-family: arial;">Gojin</b><span style="font-family: arial;"> (吾人): được nam giới dùng trong thư văn thời cổ, nay ít dùng.</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + </span><b style="font-family: arial;">Gusei</b><span style="font-family: arial;"> (愚生): ngày xưa được nam giới dùng với sắc thái khiêm nhường, nay được sử dụng trong thư từ. Âm Hán Việt là "ngu sinh".</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + </span><b style="font-family: arial;">Asshi</b><span style="font-family: arial;"> (あっし): được nam nữ bình dân hạ tiện sử dụng, được cho là biến thể của atashi.</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + </span><b style="font-family: arial;">Achiki</b><span style="font-family: arial;"> (あちき): được các du nữ sử dụng để che giấu xuất thân của mình. Các du nữ còn dùng asshi và achishi để tự xưng nhưng thực ra achishi chỉ thấy trong tiểu thuyết lịch sử, võ hiệp...</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + </span><b style="font-family: arial;">Wacchi</b><span style="font-family: arial;"> (わっち): giống như achiki, đây là từ tự xưng của các du nữ, hiện tại không còn dùng. Tuy nhiên, trong tiếng địa phương vùng Mino thì từ này cũng được dùng để tự xưng, bất luận nam nữ.</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + </span><b style="font-family: arial;">Warawa</b><span style="font-family: arial;"> (妾): từ tự xưng của nữ giới, bắt nguồn từ chữ 童 (warawa, warabe, "đồng" trong "nhi đồng"), mang ý nhún nhường rằng mình là kẻ ấu trĩ như trẻ nít. Hiện tại, từ này thường thấy trong tiểu thuyết, phim ảnh lịch sử và được Vương phi, Nữ vương sử dụng.</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + </span><b style="font-family: arial;">Sessha</b><span style="font-family: arial;"> (拙者): từ độc chiếm của các võ sĩ Samurai thời cổ, dùng để tự xưng với ý khiêm nhường. Âm Hán Việt là "chuyết giả" và người Việt ngày xưa vẫn dùng để nói về mình. Từ "chuyết" mang nghĩa vụng về, ngu độn nên thường được dùng như tiếp đầu ngữ đi liền với nhiều từ sau, hình thành nên ý khiêm nhường, như "chuyết tác" (sessaku) chỉ tác phẩm do mình làm ra, mang ý khiêm tốn. Nhân vật Himura Kenshin trong bộ Manga Rurōni Kenshin luôn tự xưng là sessha.</span><br /> <br /> <img style="font-family: arial;" src="http://i.imgur.com/gWmWT.jpg" alt="" border="0" /><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + </span><b style="font-family: arial;">Gusō</b><span style="font-family: arial;"> (愚僧): âm Hán Việt là "ngu tăng", thầy chùa ngốc. Đây là từ tự xưng của giới tăng lữ, tu sĩ, tương đương với "bần tăng" trong tiếng Việt. Từ này đến nay vẫn được giới tăng lữ sử dụng.</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + </span><b style="font-family: arial;">Sessō</b><span style="font-family: arial;"> (拙僧): âm Hán Việt là "chuyết tăng", tương tự như Gusō. Từ này đến nay vẫn được giới tăng lữ sử dụng.</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + </span><b style="font-family: arial;">Midomo</b><span style="font-family: arial;"> (身ども): từ tự xưng của võ sĩ (nam giới) với người đồng đẳng hay vai vế thấp hơn.</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + </span><b style="font-family: arial;">Yatsugare</b><span style="font-family: arial;"> (僕), </span><b style="font-family: arial;">Temae</b><span style="font-family: arial;"> (手前): mang nghĩa là bản thân mình. Hiện tại, trong văn thư thường thấy temae-domo (手前ども) ý nghĩa như kochira. Tuy nhiên, trong tiểu thuyết lịch sử, võ hiệp thì temae là đại từ nhân xưng ngôi thứ hai.</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + </span><b style="font-family: arial;">Kochihito, Kochito</b><span style="font-family: arial;"> (此方人): mang nghĩa đen là "người ở đây", "người này". Kochito là biến thể của kochihito. Hai từ này là đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất, dùng được cả số ít lẫn số nhiều.</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + </span><b style="font-family: arial;">Konata</b><span style="font-family: arial;"> (此方), </span><b style="font-family: arial;">Kochitora</b><span style="font-family: arial;"> (此方人等): konata mang nghĩa như kochira nhưng mang sắc thái gần gũi về mặt tâm lý hay khoảng cách, chủ yếu được nữ giới trong tầng lớp võ sĩ, công hầu quý tộc sử dụng. Dùng được với cả số ít lẫn số nhiều. Hiện tại cả hai từ này đều không còn dùng, ngoại trừ trong tiểu thuyết lịch sử, võ hiệp. </span><br /> <br /> <b style="font-family: arial;"><span style="font-size:130%;"><span style="color:#ff0000;">Nhóm từ phổ thông</span></span></b><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + </span><b style="font-family: arial;">Watashi</b><span style="font-family: arial;"> (私): là đại danh từ ngôi thứ nhất được người Nhật sử dụng nhiều nhất và là cách nói gọn của </span><b style="font-family: arial;">watakushi</b><span style="font-family: arial;">. Từ này thường được dịch là "tôi" trong tiếng Việt. Từ sau thời cận đại, watakushi được lược bỏ "ku" và trở thành watashi, thường được phụ nữ sử dụng. Ngày nay, watashi được cả nam và nữ sử dụng. Trong chốn công cộng, nam giới dùng watashi hay watakushi để nói về mình được coi là hợp phép tắc. Ban đầu, từ 私 được chua cách đọc trong bảng chữ Hán thường dùng là watakushi, còn trong các công văn hành chính thì từ watashi được viết bằng Hiragana (わたし) chứ không viết bằng Hán tự. Nhưng đến năm 2011 thì 私 chính thức được thừa nhận cách đọc trong bản Hán tự thường dùng là watashi.</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + </span><b style="font-family: arial;">Watakushi</b><span style="font-family: arial;"> (私): dạng đầy đủ của watashi, thường được sử dụng khi phát ngôn trước công chúng. Đặc biệt, trong các bài diễn thuyết của Hoàng gia Nhật, từ này luôn được sử dụng. Trước thời Muromachi thì từ này không được sử dụng như đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất nhưng sau đó nó được dùng như ngày nay.</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + </span><b style="font-family: arial;">Boku</b><span style="font-family: arial;"> (僕): được nam giới sử dụng và mang tính chất riêng tư về mình khi nói chuyện với người đồng đẳng hoặc vai vế thấp hơn hay khi thể hiện sự thân thiết với người nghe. Trong một số trường hợp cần nghi thức, nó vẫn được chấp nhận. Âm Hán Việt của từ này là "bộc" (trong nô bộc). Thời cổ, 僕 được phát âm là </span><b style="font-family: arial;">yatsugare</b><span style="font-family: arial;">, nhưng từ thời Meiji trở đi, tầng lớp thư sinh, học sinh đọc từ này là boku và sử dụng như ngày nay.</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + </span><b style="font-family: arial;">Jibun</b><span style="font-family: arial;"> (自分): vốn mang nghĩa là tự mình, bản thân mình và được nam giới trong ngành thể dục thể thao dùng để chỉ về mình. Trong loạt phim truyền hình "cảnh sát miền Tây" (seibu keisatsu), nam tài tử chính Watari Tetsuya dùng từ jibun để chỉ về mình và từ đó từ này trở nên phổ biến trong dân chúng. Trong văn viết, thỉnh thoảng cũng thấy jibun xuất hiện trong vai trò đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất và cả nữ giới cũng sử dụng nhưng trong công văn chính thức, lễ nghi thì không sử dụng. Tại vùng Kansai thì jibun được dùng như đại từ nhân xưng ngôi thứ hai.</span><br /> <br /> <b style="font-family: arial;"><span style="font-size:130%;"><span style="color:#ff0000;">Nhóm từ thân mật</span></span></b><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + </span><b style="font-family: arial;">Ore</b><span style="font-family: arial;"> (俺): được nhiều nam giới sử dụng đối với người đồng đẳng hay vai vế thấp hơn mình, mang tính thân mật hay cọc cằn. Về sắc thái, từ này tương đương với "tao" trong tiếng Việt và không được sử dụng khi đứng trước đám đông, phát biểu trong hội nghị. Tuy nhiên, ngày càng có nhiều thanh nhiên sử dụng từ này trong những tình huống cần lễ nghi trang trọng. Ore là từ biến đổi của onore (己), trước thời Kamakura, nó là đại từ nhân xưng ngôi thứ hai nhưng về sau trở thành ngôi thứ nhất. Đến thời Edo, nó được cả nam nữ, không phân biệt sang hèn đều sử dụng. Nhưng sau thời Meiji thì nó trở thành từ độc chiếm của nam giới, ngoại trừ vùng Đông Bắc vẫn còn sử dụng nó như một từ địa phương. </span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + </span><b style="font-family: arial;">Washi</b><span style="font-family: arial;"> (儂, 私): thường thấy trong tiểu thuyết, phim ảnh và được nam giới lớn tuổi sử dụng. Thời cận đại, nữ giới vẫn dùng từ này với đối phương trong trường hợp thân thiết, nhưng ngày nay nó trở thành từ độc chiếm của nam giới khi nói với người đồng đẳng hoặc kém vai vế. Washi còn là từ địa phương tại các tỉnh Aichi, Gifu và phía Tây vùng Hokuriku, nam giới không nhiều tuổi cũng sử dụng từ này. Tại những vùng này thì thanh niên, trẻ con cũng sử dụng washi để chỉ bản thân, nhưng gần đây do ảnh hưởng của phương tiện truyền thông mà giới trẻ đã chuyển sang dùng "ore".</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + </span><b style="font-family: arial;">Atashi</b><span style="font-family: arial;"> (あたし): cách nói biến âm mang tính suồng sả của watakushi, ngày nay thường được nữ giới sử dụng trong tình huống thân mật. Trong những tình huống trang trọng, nữ giới vẫn phát âm rõ ràng là watashi. Atashi ban đầu được nam nữ lưỡng dụng, nhất là trong giới thương nhân và thợ thủ công, nhưng về sau trở thành từ độc chiếm của nữ giới. Ngày nay, các diễn viên kể chuyện hài Rakugo vẫn sử dụng từ này. Sắc thái từ này tương tợ "tôi" thành "tui" trong tiếng Việt.</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + </span><b style="font-family: arial;">Atai</b><span style="font-family: arial;"> (あたい): thể biến âm và suồng sả hơn của atashi. Đây là từ độc chiếm của nữ giới và mang sắc thái cộc cằn, được phụ nữ và trẻ nhỏ ở Tōkyō sử dụng. Hiện tại, trong thường nhật hầu như không còn ai sử dụng từ này mà chỉ còn thấy trong tiểu thuyết, phim ảnh và trong tiếng địa phương ở Kagoshima.</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + </span><b style="font-family: arial;">Watai</b><span style="font-family: arial;"> (わたい): biến âm của watashi, tương tự như atai.</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + </span><b style="font-family: arial;">Wai, Wate, Ate</b><span style="font-family: arial;"> (わい, わて, あて): được sử dụng ở vùng Kinki từ sau thời cận đại. Wai là từ rút gọn của washi, là từ độc chiếm của nam giới còn wate là dạng rút gọn của watai, ate lại là dạng rút gọn hơn nữa từ wate. Ate, Wate được dùng nhiều ở Kyōto không phân biệt nam phụ lão ấu. Ngày nay, chỉ còn một số ít người già vẫn còn sử dụng những từ này.</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + </span><b style="font-family: arial;">Wadasu</b><span style="font-family: arial;"> (わだす): cách nói trại của watashi của miền Đông Bắc. </span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + </span><b style="font-family: arial;">Adasu, Wasu</b><span style="font-family: arial;"> (あだす, わす): cách nói trại của atashi, washi ở miền Đông Bắc.</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + </span><b style="font-family: arial;">Uchi</b><span style="font-family: arial;"> (うち): được nữ giới miền Tây sử dụng nhiều. Tại Kyūshū (một phần), cả nam nữ đều dùng uchi để chỉ về mình.</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + </span><b style="font-family: arial;">Oira</b><span style="font-family: arial;"> (己等): được nam giới sử dụng, mang tính địa phương. Khi làm nũng, cả nam và nữ đều dùng oira để chỉ về mình. Có những cách viết như 俺等 (đọc theo nguyên tắc là orera), 俺ら cũng đọc là oira nên rất dễ nhầm với orera (đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất, số nhiều, bọn tao, chúng tao) nên gần đây không được sử dụng. Lưu ý là từ 己等 còn có cách đọc là u'nura, đại từ nhân xưng ngôi thứ hai, bọn mày, lũ chúng bây, lũ chúng mày, tụi bây...</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + </span><b style="font-family: arial;">Ora</b><span style="font-family: arial;"> (俺ら): phái sinh từ oira, được sử dụng nhiều ở phía Bắc vùng Kantō.</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + </span><b style="font-family: arial;">Oi, oidon</b><span style="font-family: arial;"> (おい, おいどん): được nam giới ở Kyūshū sử dụng, nhất là phía Nam vùng này. Trong hội thoại thường nhật, nam giới trẻ tuổi tự xưng là oi, còn nam giới có tuổi và trong số những người sinh trước Đệ nhị Thế chiến, phụ nữ vẫn dùng oidon khi tự xưng. Oi còn được dùng như đại từ nhân xưng ngôi thứ hai, mang nghĩa "you". </span><br /><span style="font-family: arial;"> Khi gặp đám đánh nhau, cảnh sát thường nộ: oi! Kora! (おい!こら!). Thực chất câu này có nghĩa là: "này anh, chuyện gì vậy?" theo đúng nghĩa của vùng Kyūshū. Đầu thời Meiji, nhiều võ sĩ phiên Satsuma (thuộc vùng Kyūshū) được tuyển làm cảnh sát và họ vẫn thường hỏi câu này khi gặp đám đánh nhau. Dần dà, câu này trở nên phổ cập và mang ý nghĩa cảnh cáo, răn đe như ngày nay.</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + </span><b style="font-family: arial;">Ura</b><span style="font-family: arial;"> (うら): từ địa phương của vùng Hokuriku, chủ yếu do nam giới sử dụng. Ngày xưa nữ giới cũng dùng ura để chỉ về mình.</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + </span><b style="font-family: arial;">Wa, Waa</b><span style="font-family: arial;"> (わ, わー): từ địa phương vùng Tsugaru, nam nữ đều dùng. Tại tỉnh Ehime, từ này chủ yếu do nam giới có tuổi sử dụng và có khi là đại từ nhân xưng ngôi thứ hai. Từ này được cho là biến thể của ware (ngã).</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + </span><b style="font-family: arial;">Wan, Waa</b><span style="font-family: arial;"> (ワン, ワー): từ địa phương Okinawa, chủ yếu do nam giới dùng. Nữ giới Okinawa, nhất là người có tuổi thường sử dụng tên mình để chỉ về mình. Trong bài hát "Shimauta" của nhóm The Boom có câu: "wanku nu nadagwa" (わんくぬなだぐぁ) nghĩa là: nước mắt của tôi.</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + </span><b style="font-family: arial;">Bokuchan, bokuchin</b><span style="font-family: arial;"> (ぼくちゃん, ぼくちん): từ được bé trai sử dụng khi làm nũng hay bông đùa.</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + </span><b style="font-family: arial;">Orecchi</b><span style="font-family: arial;"> (おれっち): biến thể của ore, kiểu nói này do người sinh ra và được nuôi dưỡng ở Edo (Tōkyō thời cổ) sử dụng. Nó còn là biến thể của oretachi, ngôi thứ nhất số nhiều, mang nghĩa chúng ta, bọn ta. Orecchi thường được sử dụng tại trung tâm tỉnh Shizuoka.</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + </span><b style="font-family: arial;">Khuynh hướng trường âm</b><span style="font-family: arial;">: là khuynh hướng kéo dài âm a của các đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất, chẳng hạn: oryaa (おりゃあ), bokā (ぼかぁ), watashā (わたしゃ), atashā (あたしゃ), washā (わしゃあ), orā (おらぁ). Những từ này tương tự đại từ nguyên bản của chúng đi kèm với trợ từ.</span><br /><span style="font-family: arial;"> Ví dụ: わたしの、わたしは、わたしが thành わたしゃ</span><br /><span style="font-family: arial;"> Một câu trong bài hát "Itako no hanayome-san" (cô dâu vùng Itako): わたしゃ潮来の 水育ち (tôi là con người vùng sông nước)</span><br /> <br /> <br /> <br /> <b style="font-family: arial;"><span style="font-size:130%;"><span style="color:#ff0000;">Nhóm từ khiêm tốn</span></span></b><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + </span><b style="font-family: arial;">Watashime, Watakushime</b><span style="font-family: arial;"> (私め): tiếp vĩ ngữ me mang ý nhún nhường để chỉ về bản thân. Watashime thường được các hầu gái sử dụng đối với chủ nhân. </span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + </span><b style="font-family: arial;">Watakushi-domo</b><span style="font-family: arial;"> (私ども): từ khiêm nhường chỉ bản thân hay gia đình, đoàn thể của mình. Như temae-domo.</span><br /> <br /> <b style="font-family: arial;"><span style="font-size:130%;"><span style="color:#ff0000;">Nhóm từ ngạo mạn, bố láo</span></span></b><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + <span style="font-weight: bold;">Oresama</span> (俺様): ore có thể dịch là "tao", tiếp vĩ ngữ "sama" đi sau danh từ mang ý kính trọng danh từ đứng trước, tương tự ngài X, ngài Y trong tiếng Việt hay Mr. A, Mr. B. Khi cả ore đi chung với sama thì người nói tỏ ra ngạo mạn xấc xược.</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + <span style="font-weight: bold;">Atakushi</span>: thể cộc cằn của watashi, thường thấy ở các nhân vật tiểu thơ cao kỳ (tục gọi là "chảnh") hay các nhân vật ưa lấy thịt đè người trong tiểu thuyết. Trường hợp này thường đi chung với nhiều kính ngữ giản lược để hình thành sắc thái châm chọc, cộc cằn trong câu nói.</span><br /> <br /> <b style="font-family: arial;"><span style="font-size:130%;"><span style="color:#ff0000;">Nhóm từ dùng trong công việc</span></span></b><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + <span style="font-weight: bold;">Shōshoku</span> (しょうしょく), Tōhō (当方): dùng để chỉ về người nói hoặc đoàn thể, tổ chức mà người nói thuộc về và mang sắc thái trịnh trọng. Các cấp bậc trong công ty khi trao đổi thư từ với nhau cũng dùng từ này để chỉ về mình.</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + <span style="font-weight: bold;">Sakusha</span> (作者): âm Hán Việt là "tác giả". Đơn thuần là các nhà văn có khi dùng từ này để nói mình.</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + <span style="font-weight: bold;">Sensei</span> (先生): thông thường từ này là đại từ nhân xưng ngôi thứ hai được sử dụng đối với người làm nghề giáo, bác sĩ, họa sĩ Manga,.... Nhưng ngược lại, những người này (bác sĩ, giáo viên) cũng dùng như ngôi thứ nhất chỉ về mình khi nói với học sinh, bệnh nhân. </span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + <span style="font-weight: bold;">Honkan</span> (本官): âm Hán Việt là "bản quan". Ai coi nhiều phim Bao Công sẽ biết (^^). Từ này được giới cảnh sát, sĩ quan, thầy phán dùng chỉ về mình.</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + <span style="font-weight: bold;">Honshoku</span> (本職): được giới thầy cãi, thầy kiện sử dụng. Cũng có khi dùng Shōshoku, tōshoku (当職).</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + <span style="font-weight: bold;">Henshūshi</span> (編集子), Hissha (筆者): được những người đăng bài trên báo, tạp chí sử dụng chỉ về mình.</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + <span style="font-weight: bold;">Tōkyoku</span> (当局): được các đài phát thanh tư nhân sử dụng trong hội thoại, văn thư khi liên lạc với nhau.</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> + <span style="font-weight: bold;">Kochira</span> (こちら): mang nghĩa đen "đây là...", được các đài phát thanh tư nhân sử dụng. Ban đầu, khi liên lạc điện tín thường nói kochira cùng với tên mình, chẳng hạn: kochira Yamada (đây là Yamada). Về sau, lối nói này trở thành thói quan khi liên lạc điện thoại, điện báo.</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> © N.T.Duyên 1-1-2012</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> Bài kỳ sau: đại từ nhân xưng ngôi thứ hai</span>ahttp://www.blogger.com/profile/17720048983692356076noreply@blogger.com1tag:blogger.com,1999:blog-225269385787112915.post-14392925238593773522011-12-13T00:02:00.001+09:002011-12-13T00:02:44.495+09:00Thuyền đá<span style="font-family: arial;">"Ishi no fune wa tsuini ukabazu"</span><br /><span style="font-family: arial;"> (tạm dịch: cuối cùng thuyền đá cũng</span><br /><span style="font-family: arial;"> không chịu nổi lên)</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> Đây là câu nói nổi tiếng của Yagyū Muneyoshi, </span><br /><span style="font-family: arial;"> hiệu là Sekishūsai (Sekishū là cách đọc khác của</span><br /><span style="font-family: arial;"> Ishi no fune, thuyền đá) và cũng là quan điểm sống thú vị của Sekishūsai.</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> Xã hội Nhật Bản đương thời là một xã hội trọng võ nghệ.</span><br /><span style="font-family: arial;"> Phàm kẻ nào biết chút võ công, kiếm pháp đều có thể mở được đường công danh hiển hách, được các chư hầu lớn</span><br /><span style="font-family: arial;"> nhỏ mời gọi. Có người xuất thân với bàn tay trắng, dùng võ nghệ mà được hiển hách với bổng lộc trăm vạn hộc. Kẻ biết võ thời đó, có chí thì theo thờ các lãnh chúa (Daimyō), thất chí thì mở võ đường dạy con em các Samurai, lãnh chúa hay bá tánh trong vùng để kiếm cơm qua ngày. Tựu trung, những kẻ cầm kiếm đương thời và biết chút "nghệ" thì không phải lo đến cái ăn. Và được một vị lãnh chúa, Tướng quân nào đó mời gọi để nhận bổng lộc nghìn hộc cũng là mơ ước của lắm kẻ cầm kiếm đương thời.</span><br /><span style="font-family: arial;"> Nhưng đối với Yagyū Sekishūsai thì lại khác, từ lúc chỉ là một lãnh chúa nhỏ ở xứ Yamato, ông đã được lắm chư hầu chèo kéo nhưng đều từ chối hết.</span><br /><span style="font-family: arial;"> Họ Yagyū vốn là một hào tộc ở xứ Yamato nhỏ bé ở miền Tây nước Nhật. Từ thời Chiến quốc, đã có lắm thế lực nhòm ngó, muốn thôn tính vùng đất này nhưng nhờ vào tài lãnh đạo khéo léo của Sekishūsai mà xứ này chưa một lần trải qua nạn binh đao. </span><br /><span style="font-family: arial;"> Thời Chiến quốc, quần hùng cát cứ bốn phương và thôn tính lẫn nhau nên không ai nói trước được kẻ đứng vững sau cùng là người nào. Vì vậy Sekishūsai không chọn theo hầu một vị Daimyō nào cả là một điều hợp lý, dù nó đi ngược lại với lòng ham muốn công danh, sự nghiệp của phần đông kẻ võ nghệ thời đó. Nếu theo một chư hầu nào, đến khi chư hầu đó thất thế thì xứ sở tránh sao được cảnh bị cướp bóc, thiêu hủy làng mạc. Nhưng xứ Yamato trải qua mấy trăm năm, đến tận ngày nay vẫn còn xanh tốt với những cánh rừng nguyên thủy, âu cũng phần lớn nhờ vào sự sáng suốt của Sekishūsai vậy.</span><br /><span style="font-family: arial;"> Sau trận hợp chiến Sekigahara, thiên hạ rơi vào tay Tướng quân Tokugawa Ieyasu. Lúc bấy giờ loạn lạc đã không còn, đất nước quy về một mối nên Sekishūsai mới để con trai là Yagyū Munenori theo thờ họ Tokugawa, nhận chức Chỉ nam dạy kiếm cho con cháu Tướng quân, nhận bổng lộc hơn vạn hộc, con cháu đời đời hưởng phúc.</span><br /><span style="font-family: arial;"> Việc Yagyū Sekishūsai thờ ơ với thế cuộc, sớm lui về ở ẩn phần nào cũng nói lên ảnh hưởng của công án "vô đao" mà sư phụ Kami Izumi để lại cho ông. Vì vậy ông tự nhận mình là "thuyền đá", chỉ chìm ở đáy nước chứ không nổi lên mặt như thiên hạ. Ông cho rằng binh pháp (võ nghệ) của mình không dùng để xuất thế lập thân ở thế gian phù phiếm như nhiều người vẫn quan niệm. Nhân sinh quan này quả độc đáo và trái ngược với quan niệm của đa số con người thời đó lẫn đương đại. Phàm là kẻ có chút tài năng, hoặc giả là không có, người ta đều cố gắng để biến nó thành tiền tài vật chất, để được nổi danh. Nhưng Sekishūsai đã không chọn cách làm như vậy, nhưng con cháu ông vẫn đời đời được hưởng phúc. Âu cũng là cách nhìn nhận của bậc cao nhân đã đạt cảnh cực ý của binh pháp (võ nghệ) vậy. Hưởng được cái thực ở chỗ thiên hạ không hưởng được. </span>ahttp://www.blogger.com/profile/17720048983692356076noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-225269385787112915.post-78473559020190246032011-12-11T11:08:00.002+09:002011-12-11T11:12:58.896+09:00Kusari-gama<h2 style="font-family: arial; color: rgb(255, 0, 0);"> <span class="mw-headline" id="Kh.C3.A1i_y.E1.BA.BFu">Khái yếu</span></h2> <p style="font-family: arial;"><b>Kusari-gama</b> (鎖鎌) là một món vũ khí trong võ thuật Nhật Bản cổ và được phát triển từ nông cụ, một đầu là lưỡi hái để cắt cỏ được nối với đầu kia là một quả chùy bằng một đoạn dây xích sắt. Trong tiếng Nhật, "kusari" nghĩa là dây xích, còn "kama" hay "gama" (tiếp vĩ ngữ) nghĩa là lưỡi hái. Món vũ khí này phát triển trong tầng lớp nông dân, thương nhân và thợ thủ công vốn mang thân phận thấp hèn, bị chính quyền phong kiến cấm mang kiếm trong người. Nó cũng được các lưu phái võ nghệ ở Nhật sử dụng như một món võ khí ẩn và được xem là một trong "<b><a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Kobud%C5%8D&action=edit&redlink=1" class="new" title="Kobudō (trang chưa được viết)">võ nghệ thập bát ban</a></b>". Món vũ khí này được biết đến nhiều qua nhân vật Shishido Baiken xuất hiện trong tiểu thuyết "<a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/Miyamoto_Musashi_%28ti%E1%BB%83u_thuy%E1%BA%BFt%29" title="Miyamoto Musashi (tiểu thuyết)"><b>Miyamoto Musashi</b></a>" của văn hào <a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Yoshikawa_Eiji&action=edit&redlink=1" class="new" title="Yoshikawa Eiji (trang chưa được viết)">Yoshikawa Eiji</a>.</p><span style="font-family: arial;"> </span><h2 style="font-family: arial; color: rgb(255, 0, 0);"> <span class="mw-headline" id="H.C3.ACnh_d.E1.BA.A1ng">Hình dạng</span></h2><span style="font-family: arial;"> </span><p style="font-family: arial;">Về hình dạng thì Kusari-gama chủ yếu có hai loại, một loại có quả chùy xích sắt nối vào phần đầu của lưỡi hái và một loại có quả chình xích sắt nối vào phần chuôi của lưỡi hái. Ngoài ra, hình dạng Kusari-gama cũng biến đổi thiên hình vạn trạng tùy thuộc vào từng môn phái sử dụng và công phu ra nó.<br /></p><p style="font-family: arial;"><a href="http://images.wikia.com/deadliestwarrior/images/4/4d/Db_KUSARIGAMA-_3_2_%281%29.jpg" class="image" name="Db KUSARIGAMA- 3 2 (1).jpg" id="Db_KUSARIGAMA-_3_2_-281-29-jpg"><img alt="" src="http://images2.wikia.nocookie.net/__cb20100625062207/deadliestwarrior/images/thumb/4/4d/Db_KUSARIGAMA-_3_2_%281%29.jpg/316px-Db_KUSARIGAMA-_3_2_%281%29.jpg" class="thumbimage" width="316" height="195" /></a></p><p style="font-family: arial;"><br /></p><p style="font-family: arial;">Có thể kể ra một vài loại như: Ōkusari-gama (大鎖鎌) hay còn gọi là Nagi Kusari-gama thì có phần cán dài 4 <a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Th%C6%B0%E1%BB%9Bc_T%C3%A0u&action=edit&redlink=1" class="new" title="Thước Tàu (trang chưa được viết)">thước Tàu</a> (120cm), loại cán dài 7 thước gọi là Yae Kusari-gama (Nagi-gama), loại này gắn thêm xích sắt thì gọi là Yae Kusari-gama, lại có loại gắn thêm mũi giáo ở đầu lưỡi hái, vân vân. Loại có quả chùy xích sắt gắn ở đầu lưỡi hái được chế tạo để sử dụng một tay, phân tán lực vào phần cổ tay nên lưỡi hái nhỏ và dây xích cũng ngắn nên có thể vung từng nhát nhỏ. Loại có quả chùy xích sắt gắn vào cái lưỡi hái được chế tạo với mục đích sử dụng hai tay, phần lưỡi hái to và dây xích cũng rất dài (2~4m). Loại này thường được gắn thêm phần bảo vệ tay giống như đốc kiếm ở cán để tránh bị lưỡi hái làm bị thương khi bị địch thủ bắt được dây xích hay khi ném dây xích. Tại <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%E1%BA%ADt_B%E1%BA%A3n" title="Nhật Bản">Nhật Bản</a>, các loại Kusari-gama thường được các lò rèn đồ gia dụng chế tạo, chỉ có một số rất ít được các lò rèn kiếm chế tạo.</p><p style="font-family: arial;"><br /></p><h2 style="font-family: arial; color: rgb(255, 0, 0);"> <span class="mw-headline" id="C.C3.A1ch_s.E1.BB.AD_d.E1.BB.A5ng">Cách sử dụng</span></h2><span style="font-family: arial;"> </span><p style="font-family: arial;">Cách dùng cơ bản của loại võ khí này là ném quả chùy bằng dây xích vào phần đầu, mặt, ống chân và cổ tay của đối thủ. Nếu quả chùy không sát thương được thì dây xích cũng sẽ quấn chặt vào tay địch, chế ngự chuyển động của địch và cuối cùng dùng lưỡi hái ở tay trái kết liễu đối thủ. Đối với loại nhỏ có gắn quả chùy ở đầu lưỡi hái thì dùng một tay múa dây xích, vừa tính toán khoảng cánh với địch mà ném quả chùy. Đối với loại lớn có quả chùy gắn ở phần cán lưỡi hái thì tay phải nắm đoạn xích gần quả chùy vài chục cm mà múa vòng, khi thấy đã đủ lực thì ném thẳng quả chùy vào địch, giống như nguyên lý của ná bắn đá. Một khi đã ném chùy ra thì phải mất thời gian mới thu hồi và quấn lại phần xích sắt nên nhiều môn phái có thêm phần luyện tập đánh cận chiến nhỡ khi địch tránh được quả chùy. Kusari-gama là món vũ khí lợi hại, vào tay cao thủ có thể biến ảo khôn lường như rồng lượn rắn trườn nhưng rất khó sử dụng. Phần lớn những người mới sử dụng đều bị chính quả chình của mình đập vào người. Món vũ khí này cũng gần như không có tính phòng vệ, trong phát ném đầu tiên mà đối thủ tránh được thì xem như đã bước chân vào tử địa nên sử dụng vũ khí này phải có tâm lý "nhất kích tất sát".</p><span style="font-family: arial;"> </span><h2 style="font-family: arial; color: rgb(255, 0, 0);"> <span class="mw-headline" id="Phi.C3.AAn_b.E1.BA.A3n_Vi.E1.BB.87t_Nam">Phiên bản Việt Nam</span></h2><span style="font-family: arial;"> </span><p style="font-family: arial;">Trong truyện ngắn "<b>Ném bút chì</b>" (in trong tập "<a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Vang_b%C3%B3ng_m%E1%BB%99t_th%E1%BB%9Di&action=edit&redlink=1" class="new" title="Vang bóng một thời (trang chưa được viết)">Vang bóng một thời</a>"), nhà văn <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_Tu%C3%A2n" title="Nguyễn Tuân">Nguyễn Tuân</a> cũng viết về một loại võ khí gọi là "bút chì" tương tợ Kusari-gama, chỉ khác là lưỡi mai thay cho lưỡi hái và không có quả chùy sắt và dây xích được thay bằng dây thừng. Theo mô tả qua ngòi bút Nguyễn Tuân, người dụng võ khí này tay phải cầm đốc ngọn mai, tay trái quấn chặt đoạn dây thừng buộc chặt vào một đầu cán mai. Cách sử dụng cũng có khác Kusari-gama ở chỗ ném lưỡi mai vào người đối thủ, đoạn dùng tay trái giật về bằng đoạn dây thừng quấn quanh tay trái.</p><span style="font-family: arial;"> </span><h2 style="font-family: arial;"> <span class="mw-headline" id="M.E1.BB.A5c_li.C3.AAn_quan">Mục liên quan</span></h2><span style="font-family: arial;"> </span><ul style="font-family: arial;"><li><a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Kusari-gama_jutsu&action=edit&redlink=1" class="new" title="Kusari-gama jutsu (trang chưa được viết)">Kusari-gama jutsu</a></li><li><a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/Miyamoto_Musashi_%28ti%E1%BB%83u_thuy%E1%BA%BFt%29" title="Miyamoto Musashi (tiểu thuyết)">Miyamoto Musashi (tiểu thuyết)</a></li></ul><span style="font-family: arial;"> </span><h2 style="font-family: arial; color: rgb(255, 0, 0);"> <span class="mw-headline" id="V.C4.83n_ki.E1.BB.87n_tham_kh.E1.BA.A3o">Văn kiện tham khảo</span></h2><span style="font-family: arial;"> </span><p style="font-family: arial;">BAB Japan "Mọi điều về vũ khí mật" (秘武器の全てがわかる本), Iwai Kohaku biên soạn, xuất bản tháng 1 năm 1999, trang 94~110.</p><span style="font-family: arial;"> </span><h2 style="font-family: arial; color: rgb(255, 0, 0);"> <span class="mw-headline" id="Li.C3.AAn_k.E1.BA.BFt_ngo.C3.A0i">Liên kết ngoài</span></h2><span style="font-family: arial;"> </span><ul style="font-family: arial;"><li><a rel="nofollow" class="external text" href="http://chimviet.free.fr/vanhiendai/tienchie/chung/ngtn052.htm">Truyện ngắn "Ném bút chì"</a></li></ul>ahttp://www.blogger.com/profile/17720048983692356076noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-225269385787112915.post-62798501819936901052011-12-08T22:14:00.000+09:002011-12-08T22:15:30.331+09:00Yagyū Muneyoshi<b style="font-family: arial;">Yagyū Muneyoshi</b><span style="font-family: arial;"> (Yagyū Munetoshi, 柳生 宗厳) là một kiếm hào lừng danh thuộc phái kiếm </span><a style="font-family: arial;" href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Shinkage-ry%C5%AB&action=edit&redlink=1" class="new" title="Shinkage-ryū (trang chưa được viết)">Shinkage-ryū</a><span style="font-family: arial;">. Ông sinh vào </span><a style="font-family: arial;" href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Daiei&action=edit&redlink=1" class="new" title="Daiei (trang chưa được viết)">Daiei</a><span style="font-family: arial;"> thứ 7 (1527) và mất vào ngày 19 tháng 4 năm </span><a style="font-family: arial;" href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Keich%C5%8D&action=edit&redlink=1" class="new" title="Keichō (trang chưa được viết)">Keichō</a><span style="font-family: arial;"> thứ 11 (1606). Tước vị của ông là Tajima-nokami (quan đầu xứ Tajima), hiệu là </span><b style="font-family: arial;">Sekishūsai</b><span style="font-family: arial;"> (sekishū, thạch chu, tức thuyền đá). Tên thường gọi của ông là Shin-nosuke, Shinjirō, Shinzaemon, Uemon. Con cháu của ông có nhiều nhân vật lừng lẫy như </span><a style="font-family: arial;" href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Yagy%C5%AB_Munenori&action=edit&redlink=1" class="new" title="Yagyū Munenori (trang chưa được viết)">Yagyū Munenori</a><span style="font-family: arial;"> (con trai, sau giữ chức Chỉ nam dạy kiếm cho họ Tokugawa), </span><a style="font-family: arial;" href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Yagy%C5%AB_Muneaki&action=edit&redlink=1" class="new" title="Yagyū Muneaki (trang chưa được viết)">Yagyū Muneaki</a><span style="font-family: arial;"> (con trai), </span><a style="font-family: arial;" href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Yagy%C5%AB_Toshitoshi&action=edit&redlink=1" class="new" title="Yagyū Toshitoshi (trang chưa được viết)">Yagyū Toshitoshi</a><span style="font-family: arial;"> (cháu nội), </span><a style="font-family: arial;" href="http://vi.wikipedia.org/wiki/Yagy%C5%AB_J%C5%ABbei" title="Yagyū Jūbei">Yagyū Jūbei</a><span style="font-family: arial;"> (cháu nội)...</span><br /><br /><h2 style="font-family: arial;"><span class="mw-headline" id="Th.E1.BB.9Di_trai_tr.E1.BA.BB">Thời trai trẻ</span></h2><br /><p style="font-family: arial;">Yagyū Muneyoshi là con trai của <a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Yagy%C5%AB_Ieyoshi&action=edit&redlink=1" class="new" title="Yagyū Ieyoshi (trang chưa được viết)">Yagyū Ieyoshi</a>, một võ tướng thời Chiến quốc Nhật Bản và là thành chủ thành Yamato, trưởng làng Yagyū ở xứ <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/Yamato" title="Yamato">Yamato</a>. Ban đầu Muneyoshi theo học phái kiếm <a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Toda-ry%C5%AB&action=edit&redlink=1" class="new" title="Toda-ryū (trang chưa được viết)">Toda-ryū</a> với <a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Toda_Itt%C5%8Dsai&action=edit&redlink=1" class="new" title="Toda Ittōsai (trang chưa được viết)">Toda Ittōsai</a> (<a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Kanemaki_Jisai&action=edit&redlink=1" class="new" title="Kanemaki Jisai (trang chưa được viết)">Kanemaki Jisai</a>), sau theo <a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Katori_Shinj%C5%ABr%C5%8D&action=edit&redlink=1" class="new" title="Katori Shinjūrō (trang chưa được viết)">Katori Shinjūrō</a> học phái kiếm <a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Shint%C5%8D-ry%C5%AB&action=edit&redlink=1" class="new" title="Shintō-ryū (trang chưa được viết)">Shintō-ryū</a> và nổi danh từ đấy. Năm <a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Eiroku&action=edit&redlink=1" class="new" title="Eiroku (trang chưa được viết)">Eiroku</a> thứ 6 (1563), Muneyoshi gặp gỡ kiếm sư <a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Kami_Izumi_Nobutsuna&action=edit&redlink=1" class="new" title="Kami Izumi Nobutsuna (trang chưa được viết)">Kami Izumi Nobutsuna</a> thuộc phái <a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Shinkage-ry%C5%AB&action=edit&redlink=1" class="new" title="Shinkage-ryū (trang chưa được viết)">Shinkage-ryū</a> và thách đấu với vị này. Muneyoshi đấu cả 3 lần đều bại và cũng không thắng nổi đệ tử của Nobutsuna là <a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Hikita_Kagetomo&action=edit&redlink=1" class="new" title="Hikita Kagetomo (trang chưa được viết)">Hikita Kagetomo</a>. Nhận thấy sự non kém của mình, Muneyoshi lập tức quỳ lạy và xin làm đệ tử của Nobutsuna. Đến tháng 8 năm <a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Eiroku&action=edit&redlink=1" class="new" title="Eiroku (trang chưa được viết)">Eiroku</a> thứ 6 thì Muneyoshi được Nobutsuna trao cho ấn chứng và đến năm <a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Genki&action=edit&redlink=1" class="new" title="Genki (trang chưa được viết)">Genki</a> thứ 2 (1571) thì được truyền thụ lại hết mọi yếu quyết cùng phái kiếm Shinkage-ryū. Vì vậy phái kiếm Shinkage-ryū của Yagyū Muneyoshi được cho là chánh lưu và gọi là <a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Yagy%C5%AB_Shinkage-ry%C5%AB&action=edit&redlink=1" class="new" title="Yagyū Shinkage-ryū (trang chưa được viết)">Yagyū Shinkage-ryū</a> còn phái kiếm của <a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Hikita_Kagetomo&action=edit&redlink=1" class="new" title="Hikita Kagetomo (trang chưa được viết)">Hikita Kagetomo</a> là phụ lưu, gọi là <a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Hikita_Shinkage-ry%C5%AB&action=edit&redlink=1" class="new" title="Hikita Shinkage-ryū (trang chưa được viết)">Hikita Shinkage-ryū</a>.</p><span style="font-family: arial;"> </span><p style="font-family: arial;">Thời trai trẻ Muneyoshi theo thờ <a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Tsutsui_Junkei&action=edit&redlink=1" class="new" title="Tsutsui Junkei (trang chưa được viết)">Tsutsui Junkei</a>, sau theo <a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Matsunaga_Hisahide&action=edit&redlink=1" class="new" title="Matsunaga Hisahide (trang chưa được viết)">Matsunaga Hisahide</a>, đều là những võ tướng Chiến quốc xứ Yamato và là thuộc hạ của <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/Oda_Nobunaga" title="Oda Nobunaga">Oda Nobunaga</a>. Trong khoảng thời gian này ông gặp nhiều chuyện không may như bị trúng tên ở tay trong một trận chiến khi theo họ Matsunaga, một lần khác bị ngã ngựa nặng trên đường trở về cốc Yagyū vào năm Eiroku thứ 11. Năm Genki thứ 2 (1571), con trưởng của ông là Yoshikatsu bị đạn bắn trọng thương đến nỗi không cầm được kiếm. Sau đó ít lâu thì bản thân Muneyoshi cũng quay về làng Yagyū ẩn dật, chẳng màng sự đời. Đến khi <a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Matsunaga_Hisahide&action=edit&redlink=1" class="new" title="Matsunaga Hisahide (trang chưa được viết)">Matsunaga Hisahide</a> mưu phản Oda Nobunaga thì ông cũng chính thức thoát khỏi quan hệ chủ tớ với họ Matsunaga, sau có <a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Tsutsui_Junkei&action=edit&redlink=1" class="new" title="Tsutsui Junkei (trang chưa được viết)">Tsutsui Junkei</a> thay Matsunaga cai quản xứ Yamato thì ông cũng không theo. Muneyoshi còn bắt tay với võ tướng <a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=T%C5%8Dchi_T%C5%8Dnaga&action=edit&redlink=1" class="new" title="Tōchi Tōnaga (trang chưa được viết)">Tōchi Tōnaga</a>, cừu địch của họ Tsutsui để giữ thế độc lập. Nhưng đến năm <a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Tensh%C5%8D&action=edit&redlink=1" class="new" title="Tenshō (trang chưa được viết)">Tenshō</a> thứ 13, khi Toyotomi Hidenaga vào xứ Yamato đã phát giác ông ngầm che giấu ruộng đất trong cuộc kiểm tra ruộng đất của Hideyoshi. Vì vậy Muneyoshi bị tịch thu lãnh thổ và trở thành võ sĩ giang hồ, có lần còn đến ăn xin nhà <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/Konoe_Sakihisa" title="Konoe Sakihisa">Konoe Sakihisa</a>. Năm <a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Bunroku&action=edit&redlink=1" class="new" title="Bunroku (trang chưa được viết)">Bunroku</a> thứ 3, khi thiên hạ từ tay họ Toyotomi chuyển sang họ <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/Tokugawa" title="Tokugawa" class="mw-redirect">Tokugawa</a>, có lần Muneyoshi được Tướng quân <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/Tokugawa_Ieyasu" title="Tokugawa Ieyasu">Tokugawa Ieyasu</a> cho vời đến và biểu diễn tuyệt kỹ Mutō-dori trước mặt ngự tiền. Được Ieyasu hết sức tán thưởng tài nghệ và mời làm chức kiếm thuật chỉ nam (như chức giáo đầu) nhưng Muneyoshi viện cớ tuổi già và tiến cử con trai thứ 5 là Munenori nhận chức thay. Từ đó Muneyoshi giao hết mọi việc thế sự cho con trai, còn mình an hưởng tuổi già và mất tại cốc Yagyū, mộ ông vẫn còn tại chùa <a href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=H%C5%8Dtoku-ji&action=edit&redlink=1" class="new" title="Hōtoku-ji (trang chưa được viết)">Hōtoku-ji</a> ở <a href="http://vi.wikipedia.org/wiki/Nara" title="Nara">Nara</a>.</p><p style="font-family: arial;"><br /></p><h2 style="font-family: arial;"><span class="mw-headline" id="Nh.C3.A2n_sinh_quan">Nhân sinh quan</span></h2><br /><span style="font-family: arial;">Vào những năm Genki, </span><strong style="font-family: arial;" class="selflink">Yagyū Muneyoshi</strong><span style="font-family: arial;"> từ bỏ hết mọi ý định trở thành một võ tướng Chiến quốc cùng giấc mộng xuất thế lập thân và lui về cốc Yagyū ẩn dật. Lúc này ông chỉ khoảng trên 40 tuổi và không rõ vì sao Muneyoshi từ bỏ mộng công danh sớm như vậy, nhưng có lẽ cái chết của sư phụ Kami Izumi đã tác động mạnh đến tư tưởng của ông, cũng như sự sụp đổ của họ Tướng quân Ashikaga cùng cựu chủ Matsunaga. Trong những bài thơ ông trước tác trong khoảng thời gian này đều bộc lộ nổi hoài nghi của ông về mọi thứ ngoài phái kiếm </span><a style="font-family: arial;" href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Shinkage-ry%C5%AB&action=edit&redlink=1" class="new" title="Shinkage-ryū (trang chưa được viết)">Shinkage-ryū</a><span style="font-family: arial;">. Ngay cả thứ kiếm pháp này, ông cũng ví như con thuyền đá, chỉ chìm dưới đáy nước chứ không nổi lên trên mặt. Đương thời, hễ là kẻ cầm kiếm và có chút tài năng là có thể dùng võ nghệ để tiến thân, có thể làm đến chức quan to. Nhưng Muneyoshi không coi kiếm phái của mình là công cụ để tiến thân mà là một đường lối sống, một phương pháp rèn luyện thân, tâm. Vì thế về sau ông lấy hiệu là Sekishūsai, trong đó "sekishū" (thạch chu) nghĩa là "thuyền đá", con thuyền chỉ chìm dưới đáy nước chứ không nổi lên để vượt qua bể đời vốn đầy biến động thăng trầm như sóng đại dương. Nhân sinh quan của Yagyū Muneyoshi còn thể hiện qua khái niệm </span><b style="font-family: arial;">Vô đao</b><span style="font-family: arial;"> do ông lập nên và là một đặc thù lớn của phái kiếm </span><a style="font-family: arial;" href="http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Yagy%C5%AB_Shinkage-ry%C5%AB&action=edit&redlink=1" class="new" title="Yagyū Shinkage-ryū (trang chưa được viết)">Yagyū Shinkage-ryū</a><span style="font-family: arial;">.</span>ahttp://www.blogger.com/profile/17720048983692356076noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-225269385787112915.post-13952032085929389592011-11-30T21:13:00.000+09:002011-11-30T21:23:42.149+09:00Vô đao<b style="font-family: arial;"><span style="color:#008000;">"Vô đao"</span></b><span style="font-family: arial;"> (無刀, âm Nhật đọc là Mutō) nghĩa là không đao kiếm, không mang đao kiếm, không dùng đao kiếm. Đây là một khái</span><br /><span style="font-family: arial;"> niệm quan trọng trong nền kiếm đạo Nhật Bản và có tầm ảnh hưởng quan trọng đến nhiều phái kiếm như Yagyū Shinkage-ryū, Mutō-ryū, Munen-ryū,... và có liên hệ mật thiết với khái niệm "hoạt nhân kiếm" (Katsujin-ken).</span><br /><span style="font-family: arial;"> Thanh kiếm vốn dĩ được xem là hung khí số một trong xã hội phong kiến Nhật Bản, nhưng từ khi Tướng quân Tokugawa Ieyasu thống nhất thiên hạ, mang lại nền thái bình kéo dài hơn 200 năm cho đất nước này thì vai trò của thanh kiếm ngày càng mờ nhạt đi. Để thích ứng với bối cảnh lịch sử này, tầng lớp võ sĩ đã đề xuất ra khái niệm "hoạt nhân kiếm", tức thanh kiếm dùng để cứu người, làm thăng hoa nhân sinh chứ không còn là công cụ để đoạt mạng như trước nữa. Trong thời đại này, người ta chú trọng về mặt tinh thần của kiếm thuật hơn là những chiêu thức hung hiểm vốn có của nó và nâng nó lên tầm một thứ triết học. Trong bối cảnh đó, xuất hiện kiếm sư </span><b style="font-family: arial;">Kami Izumi Ise-nokami Nobutsuna</b><span style="font-family: arial;"> vốn xuất thân từ một thành chủ, nhưng sau từ bỏ địa vị của mình để theo đuổi một đời kiếm đạo. Càng luyện kiếm, ông càng nhận ra rằng sự tồn tại của thanh kiếm là không cần thiết, cũng như những chiêu thức của nó không nên dùng cho việc đoạt mạng nhau. Tinh thần bất bạo động này khá tương đồng với lý tưởng của môn võ Aikidō (Hiệp khí đạo) hiện đại.</span><br /><span style="font-family: arial;"> Một lần nọ, Kami Izumi cùng lão đệ Suzuki Ihaku cùng người cháu trai Hikita Bungorō ghé đến xứ Yamato, là địa bàn của họ Yagyū. Lúc này Kami Izumi đã nổi dang thiên hạ về kiếm nghệ nên đương chủ nhà Yagyū là Muneyoshi, vốn là một võ sĩ đương tuổi hùng mạnh, đã nổi máu con nhà võ và xin tỷ thí với Kami Izumi. Mặc cho </span><b style="font-family: arial;">Yagyū Muneyoshi</b><span style="font-family: arial;"> đang thời trai trẻ hùng hổ xông vào, Kami Izumi </span><br /><span style="font-family: arial;"> chỉ đẩy nhẹ là khống chế được Muneyoshi. Sau mấy lần tái đấu, kết quả cũng đều không khác. Muneyoshi vô cùng ngạc nhiên và cảm phục tài nghệ Kami Izumi nên xin trở thành đệ tử. </span><br /><span style="font-family: arial;"> Nhận thấy Muneyoshi là người có tư chất nên Kami Izumi Ise-nokami Nobutsuna truyền lại mọi áo nghĩa của phái kiếm Shinkage-ryū do mình sáng lập cùng một công án Thiền là "vô đao", lý tưởng và suy tư cả đời của mình lại cho Muneyoshi rồi rời khỏi xứ Yamato.</span><br /><span style="font-family: arial;"> Nhận được công án, Muneyoshi ngày đêm nghiền ngẫm, cuối cùng cũng ngộ ra được chân ý của áo nghĩa "vô đao". "Vô" là một cảnh giới trong Thiền tông, và cũng là cảnh giới tối cao trong kiếm đạo. Kể từ khi ngộ được công án này, Yagyū Muneyoshi chẳng màn gì đến chuyện đao kiếm nữa mặc dù lúc này đã nổi danh là thiên hạ vô song. Từ công án này, ông sáng tạo ra chiêu thức "Mutō-dori" hay còn gọi là "Shinken Shiraha-dori", chiêu thức bắt kiếm bằng tay không trứ danh của phái Yagyū Shinkage-ryū.</span><br /><span style="font-family: arial;"> Về già, Muneyoshi lấy hiệu là </span><b style="font-family: arial;">Sekishūsai</b><span style="font-family: arial;"> và truyền lại hết áo nghĩa của tông phái cho cháu trai là Hyōgo-nosuke. Dòng họ Yagyū trải qua nhiều đời vẫn luôn giữ vững gia phong, chuộng võ nghệ và là một trong số hiếm hoi các dòng họ luôn sản sinh ra nhân tài qua nhiều thế hệ. Họ Yagyū vẫn tự xem kiếm pháp của mình không phải là kiếm pháp của thích khách. Ấy cũng là nhờ tinh thần "vô đao" do Kami Izumi Nobutsuna truyền lại vậy. </span>ahttp://www.blogger.com/profile/17720048983692356076noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-225269385787112915.post-8714400148243878242011-11-15T23:46:00.000+09:002011-11-15T23:57:46.490+09:00Chūjō-ryū kenjutsu<b style="font-family: arial;">Chūjō-ryū</b><span style="font-family: arial;"> là một cổ phái (koryū) võ thuật Nhật Bản do Chūjō Nagahide</span><br /><span style="font-family: arial;"> sáng lập vào đầu thời Muromachi (1336~1573). Chūjō-ryū còn là tên một</span><br /><span style="font-family: arial;"> phái y học chuyên về sản phụ khoa do một cận thần của Toyotomi Hideyoshi</span><br /><span style="font-family: arial;"> khai sáng, nhưng bài này chỉ bàn về phái võ Chūjō-ryū mà thôi.</span><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> </span><b style="font-family: arial;"><span style="color:#008000;"><span style="font-size:180%;">Khái yếu</span></span></b><br /> <br /><span style="font-family: arial;"> Chūjō-ryū là một phái võ tổng hợp, ngoài kiếm thuật còn truyền dạy</span><br /><span style="font-family: arial;"> thương thuật và đoản đao. Họ Chūjō đến đời cháu của Nagahide là</span><br /><span style="font-family: arial;"> Mitsuhide thì đoạn tuyệt, nhưng lưu phái Chūjō được Nagahide truyền thụ</span><br /><span style="font-family: arial;"> cho Kai Buzen-nokami Hirokage, rồi từ đó truyền lại cho môn đồ của Hirokage</span><br /><span style="font-family: arial;"> là Ōhashi Kage Yuzaemon, Yuzaemon truyền lại cho Yamazaki Ukyō. </span><br /><span style="font-family: arial;"> Sau đó Yamazaki Ukyō chết trận nên môn đồ của ông ta là Toda Kurōzaemon Nagaie</span><br /><span style="font-family: arial;"> truyền lại phái kiếm này cho hai con trai của Yamazaki Ukyō.</span><br /><span style="font-family: arial;"> Về phía họ Toda thì Nagaie cũng truyền thụ phái kiếm này cho</span><br /><span style="font-family: arial;"> con trai là Jibu Saemon Kageie, Kageie lại truyền cho đích tử là</span><br /><span style="font-family: arial;"> Toda Seigen và Toda Kagemasa. Họ Toda đã phát triển thêm so với</span><br /><span style="font-family: arial;"> phái Chūjō-ryū ban đầu nên gọi môn phái của mình là Toda-ryū, trong</span><br /><span style="font-family: arial;"> khi đó họ Yamazaki vẫn gọi môn phái của mình là Chūjō-ryū.</span><br /><span style="font-family: arial;"> Vì vậy, Chūjō-ryū và Toda-ryū là hai phái kiếm tách bạch nhưng</span><br /><span style="font-family: arial;"> đều có chung một nguồn gốc.</span><br /><span style="font-family: arial;"> Phái kiếm Chūjō-ryū của họ Yamazaki vẫn còn truyền dạy ở Nhật</span><br /><span style="font-family: arial;"> cho đến đầu thời kỳ Shōwa nhưng hiện nay đã thất truyền. Đây là</span><br /><span style="font-family: arial;"> môn phái để lại nhiều ảnh hưởng lớn cho phái kiếm Toda-ryū và</span><br /><span style="font-family: arial;"> Ittō-ryū. </span>ahttp://www.blogger.com/profile/17720048983692356076noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-225269385787112915.post-76972047295467521022011-11-07T04:09:00.001+09:002011-11-07T04:09:52.381+09:00Trypoxylus dichotomus<div style="font-family: arial;" class="postrow has_after_content"> <div class="content"> <div id="post_message_450339"> <blockquote class="postcontent restore "> <span style="color:#ff0000;">Trypoxylus dichotomus</span> là loài côn trùng đặc trưng của đất nước Nhật Bản.<br />Bọ cánh cứng, con đực có kích thước 30~45 cm chưa kể chiều dài sừng, được mệnh danh là vua của các loài côn trùng (ở Nhật). Đặc trưng của con đực là chiếc sừng dài như chiếc sừng của cái mũ đâu mâu của các võ sĩ Samurai ngày xưa, vì thế có tên là <b>Kabuto mushi</b> (bọ mũ đâu mâu, mũ trụ), người Mỹ trực dịch gọi là <b>Samurai Helmet Beetle</b> (bọ mũ Samurai) hoặc <b>Japanese rhinoceros beetle</b> (bọ tê giác Nhật).<br />Loài bọ này giữ vị trí quán quân về kích thước côn trùng ở Nhật cho đến năm 1983 khi người ta phát hiện ra một loài bọ hiếm có kích cỡ to hơn ở Okinawa.<br />Trypoxylus dichotomus sống chủ yếu ở rừng cây lá rộng cao dưới 1500m, phân bố từ đảo Honshū trở xuống phía Nam cho đến Okinawa. Bên ngoài Nhật Bản, loài bọ cánh cứng này còn được tìm thấy ở Đài Loan, Triều Tiên và Trung Quốc. Người TQ gọi nó là "<b>độc giác tiên</b>". Loài bọ này thích những loài hoa quả nhiều nước như dưa hấu.<br /><br /><a href="http://u1.ipernity.com/12/37/50/5833750.2304761e.500.jpg" class="highslide"><img src="http://u1.ipernity.com/12/37/50/5833750.2304761e.500.jpg" alt="" border="0" /></a><br /><br />Loài bọ này là một sinh vật đại diện cho đất nước Nhật Bản. Nó thường xuất hiện trong văn hóa đại chúng của đất nước này như Anime, Manga và phim ảnh.<br /><br /><a href="http://i1183.photobucket.com/albums/x471/bugei-manga/Imgr/P1210820.jpg" class="highslide"><img src="http://i1183.photobucket.com/albums/x471/bugei-manga/Imgr/P1210820.jpg" alt="" border="0" /></a><br /><a href="http://i1183.photobucket.com/albums/x471/bugei-manga/Imgr/P1210821.jpg" class="highslide"><img src="http://i1183.photobucket.com/albums/x471/bugei-manga/Imgr/P1210821.jpg" alt="" border="0" /></a><br /><a href="http://i1183.photobucket.com/albums/x471/bugei-manga/Imgr/P1210822.jpg" class="highslide"><img src="http://i1183.photobucket.com/albums/x471/bugei-manga/Imgr/P1210822.jpg" alt="" border="0" /></a><br /><a href="http://i1183.photobucket.com/albums/x471/bugei-manga/Imgr/P1210823.jpg" class="highslide"><img src="http://i1183.photobucket.com/albums/x471/bugei-manga/Imgr/P1210823.jpg" alt="" border="0" /></a><br /><a href="http://i1183.photobucket.com/albums/x471/bugei-manga/Imgr/P1210824.jpg" class="highslide"><img src="http://i1183.photobucket.com/albums/x471/bugei-manga/Imgr/P1210824.jpg" alt="" border="0" /></a><br /><a href="http://i1183.photobucket.com/albums/x471/bugei-manga/Imgr/P1210825.jpg" class="highslide"><img src="http://i1183.photobucket.com/albums/x471/bugei-manga/Imgr/P1210825.jpg" alt="" border="0" /></a><br /><a href="http://i1183.photobucket.com/albums/x471/bugei-manga/Imgr/P1210826.jpg" class="highslide"><img src="http://i1183.photobucket.com/albums/x471/bugei-manga/Imgr/P1210826.jpg" alt="" border="0" /></a><br /><a href="http://i1183.photobucket.com/albums/x471/bugei-manga/Imgr/P1210828.jpg" class="highslide"><img src="http://i1183.photobucket.com/albums/x471/bugei-manga/Imgr/P1210828.jpg" alt="" border="0" /></a><br /><a href="http://i1183.photobucket.com/albums/x471/bugei-manga/Imgr/P1210831.jpg" class="highslide"><img src="http://i1183.photobucket.com/albums/x471/bugei-manga/Imgr/P1210831.jpg" alt="" border="0" /></a><br /><br /><br />Mẫu Origami Trypoxylus dichotomus do Dr. Robert J. Lang thiết kế từ 01 tờ giấy vuông là một trong những mẫu bọ hoàn hảo nhất thuộc loài này. Mẫu vật thể hiện được hết những đặc điểm của Trypoxylus dichotomus như chiếc sừng dài và sừng nhỏ ở phần đầu, các khớp chân đặc trưng của côn trùng và miếng tam giác nối giữa đầu và ngực cũng như đường rãnh gấp cánh trên lưng bọ.<br /><br /><a href="http://i1183.photobucket.com/albums/x471/bugei-manga/Imgr/P1210836.jpg" class="highslide"><img src="http://i1183.photobucket.com/albums/x471/bugei-manga/Imgr/P1210836.jpg" alt="" border="0" /></a><br /><a href="http://i1183.photobucket.com/albums/x471/bugei-manga/Imgr/P1210837.jpg" class="highslide"><img src="http://i1183.photobucket.com/albums/x471/bugei-manga/Imgr/P1210837.jpg" alt="" border="0" /></a><br /><a href="http://i1183.photobucket.com/albums/x471/bugei-manga/Imgr/P1210841.jpg" class="highslide"><img src="http://i1183.photobucket.com/albums/x471/bugei-manga/Imgr/P1210841.jpg" alt="" border="0" /></a><br /><br /><a href="http://i1183.photobucket.com/albums/x471/bugei-manga/Imgr/P1220064.jpg" class="highslide"><img src="http://i1183.photobucket.com/albums/x471/bugei-manga/Imgr/P1220064.jpg" alt="" border="0" /></a><br /><a href="http://i1183.photobucket.com/albums/x471/bugei-manga/Imgr/P1220068.jpg" class="highslide"><img src="http://i1183.photobucket.com/albums/x471/bugei-manga/Imgr/P1220068.jpg" alt="" border="0" /></a><br /><a href="http://i1183.photobucket.com/albums/x471/bugei-manga/Imgr/P1220058.jpg" class="highslide"><img src="http://i1183.photobucket.com/albums/x471/bugei-manga/Imgr/P1220058.jpg" alt="" border="0" /></a><br /><br /><br /><br />Bonus:<br /><br /><a href="http://i1183.photobucket.com/albums/x471/bugei-manga/Imgr/P1220062.jpg" class="highslide"><img src="http://i1183.photobucket.com/albums/x471/bugei-manga/Imgr/P1220062.jpg" alt="" border="0" /></a> </blockquote> </div> </div> </div>ahttp://www.blogger.com/profile/17720048983692356076noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-225269385787112915.post-82551132301936982482011-11-03T11:49:00.002+09:002011-11-03T12:09:57.355+09:00Hōzō-in-ryū Sōjutsu<span style="font-family:arial;">Thương thuật Hōzō-in (宝蔵院流槍術, Hōzō-in-ryū Sōjutsu) là một phái thương</span><br /><span style="font-family:arial;">thuật Nhật Bản sử dụng ngọn thương chữ thập do <span style="font-weight: bold;">Hōzō-in Kakuzenbō In-ei</span>, một tăng binh của chùa Kōfuku-ji (Hưng phúc tự) ở Nara khai sáng. Ngoài thương pháp, phái này còn truyền dạy thuật đánh Naginata, một võ khí đặc trưng của Nhật Bản với cán dài như cán thương nhưng đầu kia gắn một lưỡi đao sắc. </span><br /><span style="font-family:arial;">Khai tổ của phái là Kakuzenbō In-ei, đệ tử đời thứ hai là Inshun, đời thứ ba là Insei và đời thứ tư là Infū.</span><br /><br /><span style="font-family:arial;">Võ khí đặc trưng của phái này là thương chữ thập (Jūmoji yari). Khác với các loại thương thông thường, tại phần mũi thương của nó có gắn thêm lưỡi dao sắc hình trăng lưỡi liềm nên có thể vừa đâm như giáo, vừa chém gạt như Naginata. So với các loại thương thông thường thì nó có nhiều ưu điểm hơn về mặt tấn công và phòng thủ nên đương thời, phong trào theo học thương pháp Hōzō-in nở rộ một thời.</span><br /><br /><img alt="" src="http://ne9.upanh.com/b4.s4.d3/533415e597b44381466e7c0a96d9e392_37453159.img56722954.700x0.jpg" id="main_img" style="max-height: 450px; visibility: visible;" /><br /><br /><span style="font-family:arial;">Tương truyền rằng Kakuzenbō In-ei trong một đêm tập võ nhìn thấy bóng trăng lưỡi liềm in trên mặt ao Saruzawa và bị ấn tượng với hình ảnh đó nên đã chế ra mũi thương chữ thập.</span><br /><span style="font-family:arial;">Hiện tại chỉ còn nhánh Takada của Hōzō-in-ryū là còn truyền dạy nhưng không thành hệ thống và cũng thất truyền các kỹ thuật đánh Naginata.</span><br /><br /><span style="font-weight: bold; color: rgb(204, 0, 0);font-family:arial;" >Khai tổ Hōzō-in In-ei</span><br /><span style="font-family:arial;">In-ei sinh năm đầu của niên hiệu Daiei (1521) và mất năm Keichō thứ 12 (1607) là một tăng binh, một võ thuật gia trong chùa Kōfuku-ji, hiệu là Kakuzenbō và là viện chủ của Hōzō-in (Bảo tàng viện), một tự viện con của Kōfuku-ji.</span><br /><span style="font-family:arial;">Hōzō-in In-ei vốn là chỗ thâm giao với Yagyū Muneyoshi, theo lời khuyên của ông này đã đến học võ nghệ với Kamiizumi Nobutsuna, khai tổ của phái kiếm Shikage-ryū. Ngoài ra ông còn theo học với rất nhiều thầy khác, nhưng trong đó chịu nhiều ảnh hưởng nhất từ võ phái Tenshin Shōden Katori Shintō-ryū, một trong ba tông phái khởi nguyên của võ nghệ Nhật Bản.</span><br /><span style="font-family:arial;">Vào những năm cuối đời, In-ei thấy thương pháp của mình mâu thuẫn với giới cấm sát sinh nên không động đến giáo mác nữa, truyền giao toàn bộ võ cụ cho cao đồ Nakamura Naomasa và sống như một tăng lữ bình thường. Người kế thừa thương thuật của ông là viện chủ Hōzō-in đời thứ hai Inshun. Trong các môn đồ của ông có nhiều danh tướng dưới trướng của các sứ quân, tiêu biểu là Kani Saizō, một dũng tướng của Fukushima Masanori.</span><br /><br /><span style="font-weight: bold; color: rgb(204, 0, 0);font-family:arial;" >Hōzō-in Inshun</span><br /><span style="font-family:arial;">Inshun sinh năm Tenshō thứ 17 (1589), mất năm Shōhō thứ 5 (1648), là một nhà sư và một võ đạo gia đầu thời Edo. Ông là viện chủ Hōzō-in, một tự viện con của chùa Kōfuku-ji ở Nara.</span><br /><span style="font-family:arial;">Inshun xuất thân từ gia đình hào sĩ ở xứ Yamashiro và là người thừa kế thương thuật Hōzō-in do Kakuzenbō In-ei sáng lập. Inshun là người hoàn thiện hệ thống thương thuật Hōzō-in trong thời Edo.</span><br /><br /><span style="font-family:arial;">©N.T.Duyên 2011</span>ahttp://www.blogger.com/profile/17720048983692356076noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-225269385787112915.post-22065605895467672842011-10-27T23:25:00.002+09:002011-10-27T23:37:46.427+09:00Cha và con<div style="font-family: arial;" class="content"> <div id="post_message_34087"> <blockquote class="postcontent restore"> <b>(Dành cho những ai đã xem bộ phim Sói mang con</b>)<br /><br />Sói mang con (Kozure Ôkami, hay Lone wolf and Cub) là bộ phim về tình cha con cảm động nhất tôi từng xem. Dưới đây là bài hát chủ đề trong phim<br /><br /><a href="http://www.youtube.com/watch?v=IPgWaBatlxM">Nghe bài hát</a><br /> <br /><br /><b>Tạm</b> dịch lời<br /><br />Chỉ có cha mới hiểu được con,<br />chỉ có con mới thấu lòng cha...<br /><br /><br />(Trong một căn nhà bỏ hoang nơi chân thành đổ nát,<br />có một đứa trẻ đang đợi cha.<br />Lẽ ra sáng nay cha đã trở về rồi.<br />Đã hết sáng ngày thứ ba, đã đến đêm ngày thứ tư.<br />Buổi sáng ngày thứ năm trời đổ cơn mưa)<br /><br />Mưa rơi, mưa rơi lộp bộp<br />Từng giọt mưa lạnh làm tê cóng tâm hồn non trẻ<br />Em đang đợi người cha không trở về<br />Vì cha em làm nghề thích khách<br /><br />Mưa rơi, mưa rơi lộp bộp<br />Mưa rơi, mưa rơi lộp bộp<br /><br />Cha nuốt nước mắt đi chém người<br />Cha hứa sẽ trở về nhưng mãi chẳng thấy<br />Em hóa xương khô trong cơn mưa lạnh<br />Em hóa xương khô trong cơn mưa lạnh<br />Ahh Daigorō vừa mới lên ba<br /><br />Mưa rơi, mưa rơi lộp bộp<br />Mưa rơi, mưa rơi lộp bộp<br /><br /><br />Vù vù, gió thổi vù vù<br />Vù vù, gió thổi vù vù<br />Em run từng cơn đói trong cơn gió bắc<br />Cha không trở về giờ đang ở đâu<br />Vì cha em làm nghề thích khách<br />Vù vù, gió thổi vù vù<br />Vù vù, gió thổi vù vù<br /><br />Cha nuốt nước mắt đi chém người<br />Cha hứa sẽ trở về nhưng mãi chẳng thấy<br />Em về với đất trong cơn gió lạnh<br />Em về với đất trong cơn gió lạnh<br />Ahh Daigorō vừa mới lên ba<br /><br />(Buổi sáng thứ sáu trời đổ sương<br />Sương biệt ly báo hiệu khí tiết thay đổi)<br /><br />Sương rơi, sương rơi não nùng<br />Sương rơi biệt ly trong cơn mưa lạnh<br />Chân em dẫm sương như tê dại<br />Em vẫn ra đi tìm cha<br />Vì cha em làm nghề thích khách<br />Sương rơi, sương rơi não nùng<br />Sương rơi, sương rơi não nùng<br />Cha nuốt nước mắt đi chém người<br />Cha hứa sẽ trở về nhưng mãi chẳng thấy<br />Em đứng chết cóng trong cơn sương này<br />Em đứng chết cóng trong cơn sương này<br />Ahh Daigorō vừa mới lên ba<br />Sương rơi, sương rơi não nùng<br />Sương rơi, sương rơi não nùng </blockquote> </div> </div> <blockquote style="font-family: arial;" class="signature restore"><div class="signaturecontainer"><a href="http://daiwakon.blogspot.com/" target="_blank"><span style="font-size:130%;"><span style="color:seagreen;"><b>Hợp khí</b></span></span></a><a href="http://forum.origami.vn/profile.php?do=editprofilepic" target="_blank"><br /></a></div></blockquote><iframe allowfullscreen='allowfullscreen' webkitallowfullscreen='webkitallowfullscreen' mozallowfullscreen='mozallowfullscreen' width='320' height='266' src='https://www.blogger.com/video.g?token=AD6v5dzMGlXuC6P3d5JzU50hcPx-N_kat6SMCml8GYG0p3rWJ-FtUxG3Ye-SSuOhdw_XlgK57LGIsfy9K8Pt7Zu8eA' class='b-hbp-video b-uploaded' frameborder='0'></iframe><iframe allowfullscreen='allowfullscreen' webkitallowfullscreen='webkitallowfullscreen' mozallowfullscreen='mozallowfullscreen' width='320' height='266' src='https://www.blogger.com/video.g?token=AD6v5dyIgNcEdYNEqQfssrLRUmSW-fDGN0o6CWufI_Pq3oJboba5ROIJGlee75t2077M5rCPWaXOwVIDRcBh3Lv9Cw' class='b-hbp-video b-uploaded' frameborder='0'></iframe>ahttp://www.blogger.com/profile/17720048983692356076noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-225269385787112915.post-35058456382190994352011-10-26T23:38:00.000+09:002011-10-26T23:39:36.598+09:00Longhead Locust<span style="font-family: arial;">Giấy nến</span><br /><span style="font-family: arial;"> 30x30 cm</span><br /><br /><br /><img src="http://ne8.upanh.com/b5.s19.d1/8cbe7df8ba4aa6ed9ae7c88c61f0142e_37103408.p1210561.jpg" alt="" border="0" /><br /><img src="http://ne5.upanh.com/b6.s7.d2/3fb5725561c873d6841ee09738f283fc_37103415.p1210562.jpg" alt="" border="0" /><br /><img src="http://ne9.upanh.com/b1.s8.d3/56791f0cbc7a551890d3ae19a0258dd2_37103419.p1210563.jpg" alt="" border="0" /><br /><img src="http://ne0.upanh.com/b5.s17.d2/4273fb200295c651c1f742f4a654e574_37103420.p1210566.jpg" alt="" border="0" /><br /><img src="http://ne7.upanh.com/b4.s5.d3/cfd5f4b5fe738a5dfb43d14f28f2fa25_37103427.p1210567.jpg" alt="" border="0" /><br /><img src="http://ne3.upanh.com/b5.s20.d1/ad4ab5c94d572a6a8398cbcbabbb76f6_37103433.p1210568.jpg" alt="" border="0" /><br /><img src="http://ne7.upanh.com/b5.s20.d1/85aae98134b459b90dbc0fda2c28fc39_37103437.p1210597.jpg" alt="" border="0" /><br /><img src="http://ne3.upanh.com/b1.s15.d2/0cd0a99926e1aaa02d64c10797c4ca0a_37103443.p1210598.jpg" alt="" border="0" /><br /><img src="http://ne0.upanh.com/b2.s5.d3/000013c173561c06b446a07d36be0b15_37103450.p1210599.jpg" alt="" border="0" /><br /><img src="http://ne8.upanh.com/b1.s7.d2/9a15946a5218363c25501cbe311dfb61_37103458.p1210604.jpg" alt="" border="0" /><br /><img src="http://ne5.upanh.com/b3.s5.d4/d045f3e167166f0aff27b515c1c449e5_37103465.p1210607.jpg" alt="" border="0" /><br /><img src="http://ne5.upanh.com/b4.s18.d1/3e5a5e51027504c9257509535eddfa6b_37103405.p1210784.jpg" alt="" border="0" />ahttp://www.blogger.com/profile/17720048983692356076noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-225269385787112915.post-38037335246291408502011-10-21T23:47:00.000+09:002011-10-21T23:48:21.168+09:00Tiger head<span style="font-family: arial;">Hổ đầu</span><br /><span style="font-family: arial;"> Giấy xi măng 25x25cm</span><br /> <br /> <a style="font-family: arial;" href="http://ne9.upanh.com/b6.s12.d3/de573050fdcf1123eb36f429d2f75d48_36860659.p1210552.jpg" class="highslide"><img src="http://ne9.upanh.com/b6.s12.d3/de573050fdcf1123eb36f429d2f75d48_36860659.p1210552.jpg" alt="" border="0" /></a>ahttp://www.blogger.com/profile/17720048983692356076noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-225269385787112915.post-90603812829400598892011-10-18T23:51:00.004+09:002012-01-11T22:42:39.678+09:00Manga: Vagabond tiếng Việt<a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" style="font-family: arial;" href="http://3.bp.blogspot.com/-hfQDz93d5CI/Tp2Sv0hYzcI/AAAAAAAAAFI/NAQt30pPSVw/s1600/Vagabond_03-043.jpg"><img style="display: block; margin: 0px auto 10px; text-align: center; cursor: pointer; width: 222px; height: 320px;" src="http://3.bp.blogspot.com/-hfQDz93d5CI/Tp2Sv0hYzcI/AAAAAAAAAFI/NAQt30pPSVw/s320/Vagabond_03-043.jpg" alt="" id="BLOGGER_PHOTO_ID_5664845256552140226" border="0" /></a><br /><span style="font-family:arial;">Người nào biết nỗi ê chề khi thua trận thì cũng biết</span><br /><span style="font-family:arial;">niềm hoan hỷ đến chảy nước mắt khi thắng trận.</span><br /><span style="font-family:arial;">Tương tự, nếu như thờ ơ trước cái chết thì cũng</span><br /><span style="font-family:arial;">sẽ không cảm nhận được hết sự sống.</span><br /><span style="font-family:arial;">Hạnh phúc là gì, là hãy biết cảm tạ những thứ mình đang có.</span><br /><span style="font-family:arial;">Điều này tuy đơn giản nhưng lại khó, tuy khó nhưng </span><br /><span style="font-family:arial;">lại đơn giản.</span><br /><br /><span style="font-family:arial;">Inoue Takehiko</span><br /><br /><br /><span style="font-family:arial;">Download: http://www.mediafire.com/?r5rgvh7cx0y4c</span>ahttp://www.blogger.com/profile/17720048983692356076noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-225269385787112915.post-58178425144030163032011-10-12T00:40:00.001+09:002011-10-12T00:40:38.271+09:00Cá vàng Ryukin<span style="font-family: arial;">Cá vàng Ryukin</span><br /><span style="font-family: arial;"> Gấp từ 01 tờ giấy Kami Nhật, 23x23cm</span><br /> <br /> <br /> <a style="font-family: arial;" href="http://i1143.photobucket.com/albums/n638/ASM65816/P1210193.jpg" class="highslide"><img src="http://i1143.photobucket.com/albums/n638/ASM65816/P1210193.jpg" alt="" border="0" /></a><br /> <a style="font-family: arial;" href="http://i1143.photobucket.com/albums/n638/ASM65816/P1210194.jpg" class="highslide"><img src="http://i1143.photobucket.com/albums/n638/ASM65816/P1210194.jpg" alt="" border="0" /></a><br /> <a style="font-family: arial;" href="http://i1143.photobucket.com/albums/n638/ASM65816/P1210198.jpg" class="highslide"><img src="http://i1143.photobucket.com/albums/n638/ASM65816/P1210198.jpg" alt="" border="0" /></a><br /> <a style="font-family: arial;" href="http://i1143.photobucket.com/albums/n638/ASM65816/P1210199.jpg" class="highslide"><img src="http://i1143.photobucket.com/albums/n638/ASM65816/P1210199.jpg" alt="" border="0" /></a><br /> <a style="font-family: arial;" href="http://i1143.photobucket.com/albums/n638/ASM65816/P1210210.jpg" class="highslide"><img src="http://i1143.photobucket.com/albums/n638/ASM65816/P1210210.jpg" alt="" border="0" /></a><br /> <a style="font-family: arial;" href="http://i1143.photobucket.com/albums/n638/ASM65816/P1210211.jpg" class="highslide"><img src="http://i1143.photobucket.com/albums/n638/ASM65816/P1210211.jpg" alt="" border="0" /></a><br /> <a style="font-family: arial;" href="http://i1143.photobucket.com/albums/n638/ASM65816/P1210212.jpg" class="highslide"><img src="http://i1143.photobucket.com/albums/n638/ASM65816/P1210212.jpg" alt="" border="0" /></a><br /> <a style="font-family: arial;" href="http://i1143.photobucket.com/albums/n638/ASM65816/P1210213.jpg" class="highslide"><img src="http://i1143.photobucket.com/albums/n638/ASM65816/P1210213.jpg" alt="" border="0" /></a>ahttp://www.blogger.com/profile/17720048983692356076noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-225269385787112915.post-7210862676239827102011-10-09T19:51:00.002+09:002012-01-11T22:32:23.028+09:00Yoshikawa Eiji: Miyamoto Musashi<div id="post_message_7600368"> <b><span style="font-size:180%;"><span style="color:Blue;">Khái yếu</span></span></b><br /><br /><span style="font-family:Arial;">"<b>Miyamoto Musashi</b>" (宮本武蔵) là một trường thiên tiểu thuyết<br />được đăng tải trên báo Asahi của nhà văn <b>Yoshikawa Eiji</b>. Tác phẩm<br />này được đăng liên tục từ ngày 23 tháng 8 năm 1935 đến ngày<br />11 tháng 7 năm 1939. Nội dung tác phẩm viết về cuộc đời kiếm sĩ<br />của nhân vật lịch sử <b>Miyamoto Musashi</b> (thế kỷ 16) từ thuở thiếu niên, quyết<br />lập thân bằng kiếm đạo cho đến lúc trở thành kiếm sĩ vang danh thiên hạ.<br />Đồng thời, thông qua nhân vật Musashi, tác phẩm cũng đề cập đến<br />cuộc đời của các kiếm khách xung quanh Musashi và những biến động<br />của xã hội Nhật Bản đương thời.<br /><br /><img src="http://nd5.upanh.com/b4.s2.d2/51d57397cbbf9b72dafb0d4ae4c24fb4_36301285.e00366778485570.jpg" alt="" border="0" /><br /><i><span style="color:Blue;">Bộ 8 cuốn Tankōbon</span></i><br /><br />Tác phẩm này mô tả kiếm hào Miyamoto Musashi, khai tổ của phái<br />song kiếm Nitō-ryū dưới khía cạnh của một người cầu đạo, nhận thức<br />sự đời dưới góc độ vô thường nên đã đánh trúng tâm lý người dân<br />Nhật Bản trong thời kỳ chiến tranh Thái bình dương. Người Nhật<br />đọc "Miyamoto Musashi" trong bối cảnh đất nước bị chiến tranh tàn phá,<br />họ tìm thấy ở Miyamoto Musashi tinh thần cầu đạo mãnh liệt, tinh tấn<br />dũng mãnh vượt qua mọi nghịch cảnh của cuộc đời. Trải qua thời kỳ<br />kinh tế bong bóng sụp đổ, một lần nữa người dân Nhật Bản lại tìm<br />đến Musashi như một nguồn động viên mãnh liệt để vượt qua bao<br />khó khăn trong cuộc đời. Vì vậy tuy có rất nhiều tác giả, nhiều tiểu<br />thuyết viết về kiếm thánh Miyamoto Musashi nhưng bản tiểu thuyết<br />của Yoshikawa Eiji vẫn được đánh giá là một trong những bộ tiểu thuyết được dân chúng Nhật yêu thích nhất, là bộ sách gối đầu giường cho bao<br />thế hệ người Nhật Bản, trở thành một đại biểu lớn cho nền văn học đại<br />chúng của đất nước này và cũng là một trong những bộ sách bán chạy<br />nhất tại nước này.<br />Sau khi kết thúc đăng tải trên mặt báo, Miyamoto Musashi được<br />xuất bản dưới dạng sách bỏ túi (Tankōbon) và ảnh hưởng nhiều đến<br />các tác phẩm ở mọi thể loại khác lấy đề tài về nhân vật Musashi như<br />Manga, Anime, điện ảnh, kịch nói, game......<br /><br /><br /><b><span style="color:Blue;"><span style="font-size:180%;">Nội dung</span></span></b><br /><br />Tác phẩm mở đầu bằng cảnh Shinmen Takezō bại chiến khi<br />tham gia vào Tây quân trong cuộc phân tranh thiên hạ giữa họ<br />Tokugawa và họ Ishida trên chiến trường Sekigahara vào đầu<br />thế kỷ 16. Thuở thiếu niên, Takezō ôm mộng xuất thế lập thân,<br />rủ người bạn thân là Matahachi cùng rời bỏ làng Miyamoto để<br />xuất trận hòng tìm công danh với đời. Tây quân bại trận tan tác,<br />để báo tin Matahachi đã lưu lạc tha phương, Takezō trở về làng<br />Miyamoto nhưng gặp phải sự phản kháng, truy đuổi từ bà cụ<br />Osugi, mẹ của Matahachi. Như con thú hoang bị dồn vào đường cùng,<br />Takezō ra sức chém giết bất kỳ ai đến gần mình, tâm cảnh<br />lâm vào chỗ rách nát khôn cùng. Giữa lúc đó, thiền sư<br />Takuan Sōhō và thiếu nữ thánh thiện Otsū xuất hiện, giúp Takezō làm<br />lại cuộc đời.<br />Trải qua 3 năm giam mình trong thạch thất, đọc sách thánh hiền, Shinmen Takezō lấy tên làng Miyamoto làm họ, đổi tên thành Musashi và lập chí<br />xuất thân bằng kiếm đạo, truy đuổi cái ráo riết tột cùng của kiếm đạo<br />trên con đường "kiếm thiền nhất như" đầy gian khổ. Tác phẩm kết thúc<br />sau khi Musashi trải qua quá trình rèn luyện thân, tâm khắc kỷ, trở thành<br />kiếm khách được thiên hạ mến mộ và đánh bại địch thủ Sasaki Kojirō<br />trên đảo Ganryū.<br /><br /><b><span style="font-size:180%;"><span style="color:Blue;">Bối cảnh ra đời</span></span></b><br /><br />Yoshikawa Eiji viết bộ "Miyamoto Musashi" giữa lúc tranh luận với nhà văn<br />Kikuchi Kan và Naoki Sanjūgo về vấn đề Miyamoto Musashi có phải là một danh nhân hay không. Năm 1932, Naoki phát biểu một bài về Miyamoto Musashi, trong đó phê phán Musashi ở nhiều góc độ. Để phản biện, Kikuchi Kan lại đưa ra những luận cứ chứng tỏ Musashi là một nhân vật đáng ngưỡng mộ. Giữa lúc tranh luận, Naoki có hỏi Yoshikawa rằng theo ý kiến của bên nào thì Yoshikawa đáp đồng ý với luận thuyết của Kikuchi. Đến khi Naoki bảo Yoshikawa hãy phát biểu lý do vì sao Musashi lại là danh nhân thì<br />Yoshikawa chỉ lặng yên không đáp.<br />Đến năm 1935, Yoshikawa bắt đầu viết "Miyamoto Musashi" và đăng trên báo Asahi Shimbun. Dự định ban đầu chỉ là vài chục chương nhưng không ngờ, độc giả tỏ ra hết sức ái mộ nên Yoshikawa đã triển khai khéo léo đến hơn hai trăm chương. Tác phẩm này đã truyền cảm hứng cho rất nhiều đạo<br />diễn và kể từ bộ phim đầu tiên về "Miyamoto Musashi" năm 1936, cho đến nay đã có khoảng vài chục bộ phim khác ra đời. Tác phẩm của Yoshikawa Eiji cũng ảnh hưởng không ít đến các loại hình nghệ thuật khác, cho dù nó có nhìn nhận nhân vật lịch sử Miyamoto Musashi dưới góc độ nào đi nữa.<br />Miyamoto Musashi trở thành một hình tượng được mến mộ trong lòng quốc dân Nhật cũng nhờ một phần lớn ở tác phẩm của Yoshikawa Eiji.<br /><br /><br /><b><span style="font-size:180%;"><span style="color:Blue;">Nhân vật</span></span></b><br /><br />Hầu hết các nhân vật xuất hiện trong tác phẩm đều là nhân vật lịch sử, được<br />Yoshikawa Eiji miêu tả đầy trực quan và sinh động. Yoshikawa xây dựng hình<br />tượng Miyamoto Musashi dưới khía cạnh một kẻ cầu đạo, một tinh thần tinh<br />tấn dũng mãnh, khắc kỷ, luôn tìm kiếm những giá trị mới, cảnh giới tốt đẹp hơn của bản thân. Musashi tượng trưng cho tinh thần kỷ luật, tính khắc kỷ,<br />cầu đạo, quả cảm của người Nhật. Nhân vật thiền sư Takuan Sōhō là một<br />người thầy chỉ dẫn Musashi thuở còn nông cạn và luôn đưa ra những lời<br />khuyên khi Musashi phân vân, lạc lối.<br />Bên cạnh đó, Yoshikawa cũng <b><span style="color:Red;">hư cấu</span></b> nên hệ thống nhân vật Matahachi, bà cụ Osugi, Otsū để tượng trưng cho từng loại tính cách của con người.<br />Nếu như Matahachi tượng trưng cho sự sa ngả, hư hỏng thì bà cụ Osugi<br />lại là điển hình cho lòng cố chấp, bảo thủ của con người. Trong khi đó Otsū<br />lại là hình ảnh tượng trưng cho lòng vị tha, bao dung của con người. Trải qua biết bao oan khiên và sóng gió mà bà cụ Osugi gây ra, Otsū vẫn quyết<br />định tha thứ và cứu bà khi lâm nạn. Cuối cùng, cụ Osugi tỉnh ngộ và không<br />còn đeo bám theo Otsū để báo thù nữa, thật đúng với câu "Bồ đề tâm<br />có công năng bẻ gãy mọi ác pháp".<br /><br /><b><span style="font-size:180%;"><span style="color:Blue;">Bối cảnh xã hội</span></span></b><br /><br />Miyamoto Musashi mở đầu bằng cuộc giao tranh kinh thiên động<br />địa trên chiến trường Sekigahara. Cuộc chiến này đã chấm dứt<br />thời kỳ Chiến quốc loạn lạc kéo dài một thế kỷ. Giờ đây thiên hạ thái bình<br />dưới sự thống trị của họ Tướng quân Tokugawa nên xã hội cũng có nhiều<br />biến động đáng kể. Tầng lớp võ sĩ vốn được trọng vọng trong thời chiến<br />bỗng dưng mất đi vị trí trong thời bình. Không còn những trận giao tranh<br />nữa nên võ nghệ dần đi vào thoái trào, võ sĩ không còn đường lập công<br />danh nhờ sự chém giết nữa. Thời thái bình, thông thương phát triển khiến<br />tầng lớp con buôn chợ búa vốn bị khinh ghét trong xã hội trước đó bỗng<br />trở thành một thế lực lớn dần buộc người ta phải cuối đầu. Đó là thời khắc giao mùa của xã hội võ gia với xã hội vật chất thực dụng, bọn con buôn dần chiếm ưu thế trong xã hội với những ngón đòn ma mãnh. Đọc "Miyamoto Musashi", người ta thấy rõ sự sa sút, đọa lạc của những danh gia vọng tộc xuất thân từ võ sĩ như nhà Yoshioka. Một sự đọa lạc đến bi đát mà sự thay đổi của xã hội đóng một phần lớn vai trò.<br />Thế nhưng cũng không có nghĩa là tinh thần thượng võ trong xã hội Nhật Bản<br />đương thời bị lãng quên mà nó bắt đầu chuyển mình sang một hình thái mới.<br />Không còn chiến tranh nên các kỹ năng chém giết của võ sĩ dần đi vào chỗ<br />không còn đất dùng, vì vậy nó chuyển hướng sang khía cạnh tinh thần.<br />Người đọc "Miyamoto Musashi" có thể thấy rõ sự chuyển mình của võ nghệ,<br />kiếm pháp trong thời đại này. Nó hướng đến những giá trị tinh thần, tính khắc kỷ và cầu đạo. Đại diện cho khuynh hướng này là "hoạt nhân kiếm" (Katsujinken) của phái Yagyū-ryū mà đại biểu là Yagyū Muneyoshi. Kiếm thuật không còn là hung khí để giết người nữa mà trở thành một công cụ để<br />người cầm kiếm hoàn thiện bản thân mình, rèn luyện thân tâm đến cảnh giới kiếm thiền nhất như. Kiếm đạo và Thiền đạo hòa làm một.<br />Nhân vật Miyamoto Musashi cũng là một đại diện cho xu thế này. Trải qua<br />nhiều cuộc giao tranh đẫm máu, cuối cùng Musashi nhận ra rằng cần phải<br />hướng kiếm thuật đến chỗ chân thiện mỹ với sự trợ giúp của thiền sư<br />Takuan Sōhō. Sau khi đánh bại đối thủ mạnh nhất đời mình là Sasaki Kojirō,<br />Musashi từ bỏ đường giang hồ, lui về ở ẩn và để lại cho hậu thế biết bao<br />danh tác nghệ thuật cùng cuốn sách "Ngũ luân thư" (Gorin-no-sho) được<br />lưu truyền đến ngày nay.<br /><br />©N.T.Duyên 2011</span> </div>ahttp://www.blogger.com/profile/17720048983692356076noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-225269385787112915.post-90281332348996968262011-10-04T22:15:00.001+09:002011-10-04T22:15:54.954+09:00Shizuoka Semi<span style="font-family: arial;">Giấy cực mỏng, ve sầu, Như Thị Duyên và màu acrylic</span><br /> <br /> <img style="font-family: arial;" src="http://nd1.upanh.com/b2.s16.d2/c119eb8c013c14d704d2c2371d5f1b4a_36070071.acrilic1.jpg" alt="" border="0" /><br /> <img style="font-family: arial;" src="http://nd4.upanh.com/b6.s16.d2/5d3775db293dcb1acb64243c6d4992c3_36070074.acrilic.jpg" alt="" border="0" />ahttp://www.blogger.com/profile/17720048983692356076noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-225269385787112915.post-45789354240460344122011-10-02T16:11:00.002+09:002012-01-11T22:33:16.587+09:00Đầu thai ma giới<span style="font-family: arial;">Makai Tenshō (</span><strong style="font-family: arial;">魔界転生</strong><span style="font-family: arial;">, Hán viêt: ma giới chuyển sanh) là tên một cuốn tiểu thuyết truyền kỳ của văn hào Nhật Bản Yamada Fūtarō. Tác phẩm này được đăng tải dài kỳ trên báo Ōsaka shimbun từ tháng 12 năm 1964 cho đến tháng 2 năm sau. Tác phẩm này sau đó được tập hợp thành bản bỏ túi (tankōbon) vào năm 1967.</span><br /><span style="font-family: arial;">Makai Tenshō còn là tên bí thuật xuất hiện trong tác phẩm.</span><br /><span style="font-family: arial;">Ban đầu tác phẩm có tên là Oboro Ninpōchō và tên này được giữ mãi cho đến khi xuất bản phiên bản bỏ túi, nhưng đến năm 1981, khi tác phẩm lần đầu tiên được chuyển thể thành phim ảnh thì Yamada đã đổi tên tác phẩm như hiện nay.</span><br /><br /><span style="font-family: arial;font-size:130%;" ><strong>Nội dung</strong></span><br /><br /><span style="font-family: arial;">Yui Shōsetsu, một nhà nghiên cứu binh pháp tình cờ gặp gỡ đạo sĩ Mori Sōiken và bàn chuyện cùng với Tokugawa Yorinobu ở Kishū lật đổ chính quyền, cướp thiên hạ từ tay Tướng quân Tokugawa Iemitsu ở Edo. Mori Sōiken dùng tà thuật "chuyển sanh ma giới" của mình để hồi sinh cho các kiếm khách đã chết và biến họ thành thuộc hạ để mình thao túng. Đây là thuật Ninja (nhẫn pháp) khiến cho những kẻ lúc sắp chết thấy hối tiếc về cuộc đời của mình và nảy sinh ý niệm muốn tái sinh ở dương thế,</span><br /><span style="font-family: arial;">trước lúc lâm chung thực hiện hành vi tính giao với nữ nhân mình yêu thương để có được một thân xác mới.</span><br /><span style="font-family: arial;">Các kiếm hào tái sinh nhờ thuật này được gọi là "chuyển sanh chúng", bao gồm Amakusa Shirō Tokisada, Araki Mataemon, Tamiya Bōtarō, Hōzōin Inshun, Yagyū Nyounsai, Tajima Munenori và Miyamoto Musashi. Những người này là cao thủ kiếm thuật, thương pháp vang danh khắp thiên hạ. Nhưng vẫn còn một người mà Sōiken mong muốn chiếm được thể xác là Yagyū Jūbei.</span><br /><span style="font-family: arial;">Biết được tà ý của Sōiken, Jūbei đã cùng với Sekiguchi Yatarō, một cao thủ Nhu thuật chống lại đám quỷ dữ hồi sinh từ địa ngục.</span><br /><span style="font-family: arial;">Trong phiên bản tiểu thuyết còn xuất hiện các kiếm hào Tamiya Hanbei, Sekiguchi Jūshin, Kimura Sukekurō cùng các con gái, cháu gái bị chuyển sanh chúng sát hại. Đặc trưng của nguyên bản tiểu thuyết là hầu như Jūbei không tự mình đánh bại chuyển sanh chúng mà phải nhờ sự trợ lực của những người này. Trong phiên bản điện ảnh đầu tiên, Amakusa Shirō được miêu tả là tổng đại tướng của chuyển sanh chúng và chi tiết này ảnh hưởng tới nội dung của phiên bản Manga sau này, nhưng trong bản tiểu thuyết thì Amakusa chỉ là một đệ tử yêu của Sōiken và là con rối trong tay hắn.</span><br /><br /><br /><strong style="font-family: arial;"><span style="font-size:130%;">Phiên bản điện ảnh năm 1981</span></strong><br /><br /><div style="font-family: arial;" id="cmimg"><img src="http://www.filmfortress.com/images/samurai_r_review.jpg" alt="ComicVN : Vui lòng đợi chút , trang này đang tải - Nếu Tải Xong Sẽ Mất - Vẫn Thấy là ảnh load thiếu" /></div><br /><br /><span style="font-family: arial;">Phiên bản điện ảnh đầu tiên của tác phẩm này được đạo diễn Fukasaku Kinji thực hiện với sự tham gia diễn xuất của các diễn viên gạo cội: nam tài tử </span><strong style="font-family: arial;"><span style="color:Blue;"><a href="http://daiwakon.blogspot.com/2011/05/chiba-shin-ichi.html" target="_blank">Sonny Chiba</a></span></strong><span style="font-family: arial;"> (vai Yagyū Jūbei), </span><strong style="font-family: arial;"><span style="color:Blue;"><a href="http://daiwakon.blogspot.com/2010/09/kozure-okami-cont.html" target="_blank">Wakayama Tomisaburō</a></span></strong><span style="font-family: arial;"> (vai Yagyū Tajima-nokami). Trong phiên bản điện ảnh này, vì lý do thời lượng nên đạo diễn đã cắt bỏ hai nhân vật Mori Sōiken và Yui Shōsetsu cùng một nhân vật trong số chuyển sanh chúng.</span><br /><span style="font-family: arial;">Cuối bộ phim có cảnh Jūbei và Tajima-nokami giao đấu với nhau trong toà thành cháy dữ dội. Cảnh này không dùng đến hình ảnh hợp thành từ máy tính mà là cảnh quay lửa cháy thật và là cảnh được đánh giá cao của bộ phim.</span><br /><span style="font-family: arial;">Bộ phim này được biết đến dưới cái tên Samurai Reincarnation ở bên ngoài Nhật Bản và có tác động đến đạo diễn Quentin Tarantino.</span><br /><br /><br /><strong style="font-family: arial;"><span style="font-size:130%;">Phiên bản điện ảnh năm 1996</span></strong><br /><br /><span style="font-family: arial;">Phiên bản này do đạo diễn Shirai Masaichi triển khai. Yui Shōsetsu là sứ giả từ ma giới xuất hiện trước Tokugawa</span><br /><span style="font-family: arial;">Yorinobu, kẻ đang ôm ấp dã tâm chiếm đoạt quyền lực từ Tướng quân Tokugawa Iemitsu. Shōsetsu dùng tà thuật để hồi sinh cho 7 kiếm khách đã vong mạng từ trước hòng lợi dụng sức họ để chiếm đoạt thiên hạ. Yagyū Jūbei biết được đã ra sức ngăn cản kế hoạch ma quỷ này.</span><br /><br /><strong style="font-family: arial;"><span style="font-size:130%;">Phiên bản điện ảnh năm 2003</span></strong><br /><br /><span style="font-family: arial;">Phiên bản này do đạo diễn Hirayama Hideyuki thực hiện với</span><br /><span style="font-family: arial;">một chút thay đổi trong nội dung so với nguyên tác. Trong số chuyển</span><br /><span style="font-family: arial;">sanh chúng còn có Tokugawa Ieyasu trong bản này.</span><br /><br /><strong style="font-family: arial;"><span style="font-size:130%;">Kịch nói</span></strong><br /><br /><span style="font-family: arial;">Tác phẩm Makai Tenshō còn được dựng thành kịch nói hai lần vào</span><br /><span style="font-family: arial;">năm 1981 và năm 2006.</span><br /><br /><strong style="font-family: arial;"><span style="font-size:130%;">Anime và Manga</span></strong><br /><br /><span style="font-family: arial;">Makai Tenshō được dựng thành OVA với hai phần: "địa ngục đệ nhất ca"</span><br /><span style="font-family: arial;">và "địa ngục đệ nhị ca" và bị bỏ dở tại đó. Ban đầu người ta dự định xây</span><br /><span style="font-family: arial;">dựng tác phẩm cấu thành từ 4 phần nhưng vì ảnh hưởng của vụ sát hại</span><br /><span style="font-family: arial;">trẻ em hàng loạt tại Kōbei mà kế hoạch không thành.</span><br /><br /><span style="font-family: arial;">Về Manga, tính đến năm 2011 thì có các phiên bản sau:</span><br /><br /><div style="font-family: arial;" id="cmimg"><img src="http://pds.exblog.jp/pds/1/200811/08/13/a0093213_9141963.jpg" alt="ComicVN : Vui lòng đợi chút , trang này đang tải - Nếu Tải Xong Sẽ Mất - Vẫn Thấy là ảnh load thiếu" /></div><br /><br /><span style="font-family: arial;">+ Makai Tenshō của họa sĩ Ishikawa Ken: nội dung có thay đổi so với</span><br /><span style="font-family: arial;">nguyên tác tiểu thuyết. Ishikawa Ken đã sắp xếp lại một số nhân vật xuất</span><br /><span style="font-family: arial;">hiện trong tác phẩm, cắt bỏ một số và cho nhân vật Tokugawa Yorinobu</span><br /><span style="font-family: arial;">chuyển sanh ma giới, chi tiết này vốn không có trong tiểu thuyết.</span><br /><span style="font-family: arial;">+ Makai Tenshō của họa sĩ Tomi Shinzō: đây là bản Manga trung thực</span><br /><span style="font-family: arial;">nhất với nguyên tác tiểu thuyết.</span><br /><span style="font-family: arial;">+ Makai Tenshō Ichimu no ato của nữ họa sĩ Toba Shōko: một tác phẩm dành</span><br /><span style="font-family: arial;">cho thiếu nữ (shōjo).</span><br /><span style="font-family: arial;">+ Makai Tenshō Seija no kōshin của nữ họa sĩ Kugo Naoko: một tác phẩm dành</span><br /><span style="font-family: arial;">cho thiếu nữ (shōjo).</span>ahttp://www.blogger.com/profile/17720048983692356076noreply@blogger.com0